Bạn đang xem bài viết Biểu Cảm Về Mùa Thu ❤️️ 16 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Vtlx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Biểu Cảm Về Mùa Thu ❤️️ 16 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay Nhất ✅Tham Khảo Tuyển Tập Những Bài Văn Đặc Sắc Biểu Cảm Về Mùa Thu.
I. Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu và nêu cảm xúc chung về mùa thu.
II. Thân bài:
– Cảm nghĩ về vẻ đẹp của mùa thu:
Ánh nắng: không chói chang oi bức mà nó cho ta cảm giác thoải mái, dịu nhẹ.
Cơn gió: heo mây, se se lạnh,
Bầu trời thu cao xanh vời vợi, đám mây trôi lững lờ.
Không khí: dễ chịu, trong lành…
Đêm thu tĩnh lặng yên bình
– Cảm nghĩ về ý nghĩa của mùa thu: mùa tựu trường của học trò, mùa đẹp nhất trong năm…
III. Kết bài: Khẳng định tình cảm dành cho mùa thu.
Mời bạn đọc tham khảo đoạn văn biểu cảm về mùa thu với những câu văn sáng tạo sau đây.
Từ xưa đến nay mùa thu vốn là nguồn cảm hứng cho biết bao người. Nói đến mùa thu ta nghĩ ngay đến nhưng cơn gió dìu dịu, se se lạnh, làm mát cả lòng người. Và sẽ còn gì bằng khi trong khí trời se lạnh ấy bạn được khoác một chiếc áo âm ấp, đi dạo phố và nhìn lá vàng rơi? Bầu trời ngoài kia cũng trong xanh và mát mẻ đến lạ.
Trong khung cảnh trời thu thật thi vị biết bao. Bởi lẽ, mùa thu là sự giao thoa tuyêt vời của khoảnh khắc vừa bước qua cái oi bức của mùa hạ và gần như chạm đến cái giá lạnh của mùa đông. Vì thế mà mùa thu luôn là một trong những mùa đẹp nhất của năm và luôn đáng để ta có cho mình những cảm nhận riêng về mùa thu. Ôi! Mùa thu tuyệt đẹp!
Bài văn biểu cảm về mùa thu hay sau đây đã xây dựng những hình ảnh miêu tả ấn tượng làm nổi bật lên vẻ đẹp đặc trưng của đất trời mỗi khi thu đến.
Trong một năm mùa thu có lẽ là ngắn nhất nhưng lại luôn mang đến nhiều điều thay đổi nhất trong năm. Nắng thu không chói chang như nắng hạ, không xanh xao vàng vọt yếu ớt như nắng mùa đông. Nắng thu óng ánh sắc vàng cuối cùng nhẹ nhàng nhưng cũng rất tươi đẹp.
Đã tự khi nào màu vàng đã là màu đặc trưng mỗi khi thu đến từ hoa cúc trên đường đến những chiếc lá khẽ rơi rụng khi có những cơn gió nhẹ nhẹ lướt qua. Mùa thu còn là mùa của những ngày tựu trường, tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên bước chân vào một ngôi trường hoàn toàn xa lạ với nhiều sự bỡ ngỡ và cũng là lần đầu tiên được mẹ dắt tay đến lớp cùng với sự vỗ về của mẹ và ánh mắt trìu mến đong đầy yêu thương của cô giáo.
Ôi mùa thu mùa của những kỉ niệm tôi yêu, tôi yêu cả những cơn gió hiu hiu nhẹ nhàng mênh mang mát lạnh đến nao lòng. Chợt thấy tâm hồn mình xao động trước những con đường ngập tràn ánh nắng dịu dàng bên cạnh là những chiếc lá vàng cùng với những bông hoa ven đường đang rung rinh trong nắng sớm. Điều đó thật khiến tâm hồn ta trở nên thanh thản biết bao.
Mùa thu cũng là mùa của những sự kiện quan trọng. Nhắc đến mùa thu không thể không nhắc đến những vầng trăng sáng tròn vành vạnh trong dịp Tết Đoàn Viên bên gia đình cùng ăn những chiếc bánh trung thu cùng ngắm trăng và thưởng thức những cơn gió mát của đêm mùa thu. Mùa thu cũng là mùa của sự kiêu hãnh tự hào chung của dân tộc trong ngày lễ kỷ niệm chào mừng cách mạng Tháng 8 thành công và ngày quốc khánh mùng 2 tháng 9. Khắp nơi trên mọi miền đất nước đều tưng bừng rộn rã với bầu trời xanh cùng những chiếc lá cờ đỏ sao vàng được treo tung bay trước gió.
Trên khắp các nẻo đường dòng người tấp nập ngược xuôi gương mặt ai cũng hân hoan rạng ngời. Dường như trong mỗi người đều đều có một cảm xúc chung đó là niềm xúc động và tưởng nhớ đến công lao của những thế hệ cha ông đã làm nên đất nước ngày nay. Những người đã viết nên trang sử hào hùng làm rạng danh non sông đất nước và trong chúng ta lại thầm nhắc lòng mình phải biết cố gắng hết sức để cùng nhau chung tay xây dựng tổ quốc giàu đẹp.
Nhiều người bảo mùa thu luôn mang lại vẻ buồn nhưng với tôi mùa thu lại quyến rũ đến lạ kỳ không ổn à mà rất đối tĩnh lặng không màu mè nhưng cũng rất lấp lánh… Tất cả những điều ấy đều khiến tôi yêu mùa thu yêu những cánh đồng đến mùa thu hoạch Cốm nồng nàn.
Mùa thu còn đẹp trong những khi chiều tà được thả mình vào giữa những cơn mưa lá bước trên những thảm lá vàng rụng dày cùng thưởng thức những hương vị của thiên nhiên của đồng nội ấy tôi lại cảm thấy dễ chịu đến lạ thường.
Mùa thu không phải ai cũng thấy được hết vẻ đẹp của nó có lẽ vì vậy mà trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm viết về mùa thu như: Thu Điếu, Thu Vịnh. Mỗi tác phẩm đều nói lên vẻ đẹp khác nhau của mùa thu nhưng tất cả những con người đó đều trân quý và mong đợi sự quay lại của mùa thu mỗi khi mùa đông giá lạnh đến. Họ là những người mang lại những bức tranh mùa thu tuyệt diệu khác nhau mang lại cho người đọc những cảm xúc sự dao động khác nhau nhưng đều luôn ngập tràn niềm tin trong đó.
Mùa thu đến thật nhẹ nhàng tình cảm mùa thu đến đem theo không khí mát lành của đất trời cây cỏ mùa thu là thế đấy. Chỉ có những người yêu mùa thu mới có thể cảm nhận được sự ấm áp tình yêu thương tôi yêu mùa thu yêu những gì thuộc về mùa thu.
Với yêu cầu “Viết văn biểu cảm về mùa thu ngắn nhất” thì chúng tôi đã chọn lọc được bài văn mẫu sau đây để gợi ý cho các em học sinh.
Ánh nắng chói chang của mùa hạ đã khép lại, nhường chỗ cho màu nắng vàng hoe khi mùa thu đến. Cảnh mùa thu quê em thật đẹp, thật thơ mộng.
Biết nói gì với mùa thu khi bầu trời trong veo và xanh thẳm, bao la. Những dải mây mỏng như những chiếc khăn voan vắt ngang bầu trời. Gió thu mát rượi, nhè nhẹ thổi, mang theo hương lúa nếp, hương cốm mới từ các cánh đồng quê. Sau một đêm mưa, trời thu như dịu lại, nắng trở nên vàng hoe.
Trăng thu sáng trong vằng vặc. Hoa cúc thêm vàng, cây hồng thêm ửng đỏ, quả bưởi vàng óng căng tròn. Lá vàng bay vào khung cửa sổ, giàn trầu lại xanh trước ngõ, vài quả cam cười chúm chím trên cây. Các cô gái quê em, gò má lại thêm ứng hồng vì mùa thu vội đến.
Ngoài vườn hoa cúc cùng nhiều loài hoa khác cũng rực rỡ sắc màu. Hương thơm ngát hòa quyện với màu sắc rực rỡ làm cuốn hút bao bầy ong bướm bay rập rờn. Chúng em vui mừng đón đợt Tết Trung thu để rước đèn, rước sư tử và phá cỗ. Nằm mơ em đã thấy ông trăng thu lơ lửng giữa trời.
Những dãy núi xa cúi xuống nhìn đồng lúa trổ đòng. Dòng sông trong xanh lững lờ trôi, thuyền buồm tấp nập, ghe xuồng rộn rã trên sông. Những cánh buồm như những cánh chim bay giữa trời thu. Thật thú vị khi nhìn mùa thu “thay áo mới”.
Đẹp thay lúc thu sang. Mùa thu khai trường để lại trong em sự cảm nhận thật tuyệt vời và bao kỉ niệm đầy vơi.
Đọc Thêm ⏩ Tả Mùa Thu Hay Nhất ❤️️
Bài văn cảm nghĩ về mùa thu ngắn gọn đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả bởi những cảm nhận sâu sắc và cách miêu tả tinh tế của người viết.
Khi chiếc lá ngả màu vàng úa, làn gió khẽ mơn man đổ mưa xô nghiêng trên vai. Khi những con đường se lạnh co rúm mình lại trong màu hoàng hôn tím ngắt, lòng tôi chợt thấy buồn man mác khi nhớ về những điều đã qua nghĩa là thu đã về.
Trời thật xanh và nắng thật nhạt nhưng cũng đủ để nhận thấy sự tồn tại của nắng. Sẽ không có gì khoan khoái bằng cảm giác đi trong tiết trời se lạnh, trên con đường dài ngun ngút hai hàng cây và lắng tai nghe tiếng lá vàng xào xạc dưới chân. Thỉnh thoảng lại có cơn gió nhẹ thổi qua nựng nhẹ các cánh hoa cúc vàng bên đường như thầm khen cho vẻ đẹp bình dị của loài hoa có hương thơm rất nhẹ này. Đó là những gì tôi tưởng tượng ra và thường thấy trong các giấc mơ của mình
Theo tháng năm, tôi lớn lên. Những năm tháng lăn lộn ở giảng đường cùng vô vàn những kỳ thi. Và sau những kỳ thi là giấc mơ – Giấc mơ của tôi luôn là những quyển sách dày cộp với những ghi chú chi chít và đường gạch bằng bút dạ quang xanh đỏ.
Rồi tôi cũng ra trường, đi làm, không còn bị điểm số ám ảnh nữa, nhưng luôn có cái gì đó làm tôi không có mấy khi được mơ tiếp những giấc mơ mùa thu bỏ dở. Thậm chí có lúc tôi không còn nhớ mình thích mùa thi đến thế nào.
Trời xanh lắm, xanh ơi là xanh nhưng không phải là xanh lè như cái kiểu tôi hay nói chuyện. Nắng cũng rất vàng nhưng lại cũng rất dịu. Cây cối vừa thay chiếc áo mới, chiếc áo vàng điểm hoa đỏ – nhìn đẹp cứ như những cô gái mười tám đôi mươi. Đẹp tới mức gió không nỡ lay động mà chỉ nhẹ nhàng vỗ về vừa đủ tạo ra những âm thanh xào xạc vui tai và đem hương lá khô thoảng nhẹ khắp không gian.
Tôi cũng không biết là mùa thu ở đây đẹp hơn hay mùa thu trong mơ của tôi đẹp hơn. Nhưng tôi đã ngồi liên tục hàng giờ trong công viên để đắm mình trong sắc thu, trời thu và để nghe tiếng vọng của mùa thu, hương thơm và hơi thở của mùa thu.
Khám phá văn mẫu❄️ Tả Mùa Đông ❄️Hay Nhất
Cùng lắng đọng và nhớ lại khoảnh khắc ngày tựu trường đáng nhớ trong bài văn cảm nghĩ về mùa thu tựu trường mà chúng tôi chia sẻ sau đây.
Mùa thu luôn là một nguồn cảm xúc bất tận cho các thi nhân xưa, mùa thu gợi nỗi buồn man mác, gợi sự chia phôi. Nhưng đối với các thế hệ học sinh thì mùa thu chính là mùa rộn rã nhất, bởi đây là thời điểm khai trường, mở ra một không khí học tập mới, là khởi đầu của một năm học với những niềm thú vị, đầy hào hứng. Thông thường, cứ vào dịp đầu tháng chín là các trường học trong cả nước sẽ náo nức chuẩn bị lễ khai trường cho học sinh.
Kì nghỉ hè kết thúc là bước sang mùa thu đầy rộn rã, không chỉ đẹp trong tiết trời, cảnh sắc thiên nhiên mà mùa thu còn là mùa của học tập, mùa của thi đua. Thời điểm khai giảng năm học mới như thường lệ sẽ diễn ra vào mùa thu, đầu tháng chín. Khai trường gắn với rất nhiều những hoạt động sôi nổi, lí thú mà học sinh nào cũng sẽ mong ngóng đến ngày khai trường. Đó là thời điểm đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời cũng như trong nhận thức của những em nhỏ lần đầu đến lớp
Bởi lúc này ngoài không gian gia đình, ngoài vòng tay chở che của ch mẹ thì các em sẽ được tiếp xúc với một môi trường hoàn toàn mới, đó là môi trường học tập, gặp gỡ những người chưa từng quen biết nhưng từ đây sẽ trở thành những người định hướng, giáo dục, những người bạn đồng hành trong quá trình học tập, đó là thầy cô giáo và bạn bè cùng trang lứa.
Những em nhỏ lần đầu tiên đến trường vừa náo nức lại có phần rụt rè, các em nắm tay bố mẹ cùng đến trường, lạ lẫm với không gian lần đầu tiên mình bắt gặp, cũng từ thời điểm khai trường, các em chính thức trở thành những người học sinh thực thụ, đánh dấu bước trưởng thành đầu tiên trong cuộc đời của các em.
Đối với những học sinh lớp trên, sau kì nghỉ hè dài đầy lí thú thì mùa khai trường chính là thời điểm đánh dấu các em bước thêm một bước tiến mới trong quá trình học tập của mình, các bạn học lên một lớp mới, được tiếp xúc với những tri thức độc đáo, hấp dẫn. Kì nghỉ hè tuy lí thú nhưng ai nấy đều buồn vì phải xa mái trường, xa thầy cô, bạn bè. Vì vậy mà bước chân vào cổng trường, các bạn ai cũng vui sướng cười đùa khi gặp lại các bạn, vui vẻ đón nhận không khí vui tươi của ngày khai trường.
Đối với mỗi học sinh thì có lẽ mùa khai trường là mùa đẹp nhất trong năm, đây là mùa của hi vọng, mùa của thi đua, là thời điểm khởi đầu của năm học mới đầy hứng thú, hứa hẹn nhiều thành tích cũng như những kết quả đáng mong đợi.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Văn Tả Mùa Thu Lớp 2 🌟 15 Bài Văn Tả Về Mua Thu Hay Nhất
Tham khảo bài văn biểu cảm về mùa thu Hà Nội hay nhất với những hình ảnh và cảm nhận thật độc đáo.
Tôi là một cây cột điện ngoài vỉa hè của một khu phố ở Hà Nội. Đứng đây từ rất lâu rồi, tôi cung cấp điện cho cả khu phố này cũng như đã được chứng kiến Hà Nội “thay da đổi thịt” qua từng khoảng thời gian trong năm. Mùa đông với cái lạnh buốt giá, ảm đạm ; mùa xuân nhộn nhịp trong cái Tết cổ truyền, vạn vật khoe sắc muôn nơi và mùa hạ là những ngày nóng bức song không kém phần sôi động với lũ trẻ tinh nghịch. Nhưng có lẽ tôi thực sự thích nhất là mùa thu ở Hà Nội – mùa thu mang một vẻ đẹp rất riêng chỉ có ở nơi đây.
Mùa nối mùa qua đi là một định luật của tự nhiên, con người có thể dễ dàng nhận ra đông tới bằng cơn gió rét, mùa xuân với những mầm non lộc biếc, hạ về cùng tia nắng chói chang nhưng không phải ai cũng cảm nhận được mùa thu tới. Thu sang một cách nhẹ nhàng và tinh tế, đọng lại trên tấm áo của bầu trời. Trời thu như cao hơn, rộng hơn, nhuốm một màu xanh vời vợi, mênh mông mà thật dịu mát.
Ta sẽ nói lời tạm biệt với cái oi nồng khó chịu để tận hưởng không khí trong lành, khoan khoái của đất trời. Nắng không còn gay gắt, cũng rời xa cơn mưa phùn lắc rắc hay mưa rào chợt đến chợt đi thay vào đó những sợi nắng dịu dàng len lỏi qua ô cửa sổ, bằng ngọn gió heo may mơn man da thịt người đi đường. Thiên nhiên vạn vật như hóa thành êm dịu, còn vương vấn chút hè cuối cùng vậy.
Như trong thơ của Hữu Thỉnh, ông thấy thu qua trong làn “sương chùng chình” như cố níu kéo, có sự ngập ngừng, e ấp khi đi qua ngõ nhà ai. Sương thu đã thế, mây thu còn đẹp hơn. Vào những buổi chiều gần Hồ Gươm, người ta có thể nhìn thấy dải mây hồng lơ lửng giống sao tấm khăn voan của cô thiếu nữ vắt ngang nền trời xanh thẳm.
Cây cối mùa thu cũng tiếc nuối từ bỏ bộ cánh xanh tươi chuyển thành những cành vàng úa. Lá vàng rơi cho ta biết thu về nhưng chỉ có vài tuyến phố Hà thành mới có mùa lá rụng. Lá bay bay, âm thầm lìa cành đáp xuống mặt đường, trên nóc nhà và cả vai áo ai kia, một cách thanh thản như thế, nó đem đến cảm giác dễ chịu, từ tốn của mùa. Đố họa sĩ nào pha nổi màu của lá thu rơi?
Không chỉ vậy, mùa thu còn cho ta bao hoa trái thơm ngon. Tất cả nắng vàng, cơn gió nồm nam kia đã ẩn vào quả ngọt, giờ đây mọi thứ mới thật sự tròn đầy, tôi thích nhất khi đứng nhìn từng bà bán hàng rong đạp chiếc xe rao bưởi, hồng đi qua. Hình ảnh ấy gợi tôi nhớ về mùi hoa bưởi nồng nàn lan tỏa, ướp trong trang vở học trò, trong mái tóc đen óng của người thiếu nữ Tràng An.
Mùa thu Hà Nội còn phải kể tới cốm. Ôi, đây chính là thức quà hoàn hảo nhất mà thiên nhiên ban tặng. Cốm gói trong lá sen, màu xanh ngọc đẹp đẽ và mang một mùi thơm thanh tao, rất đỗi sang trọng mà cũng thật gần gũi. “Ai cốm đây…” tiếng rao ăn sâu vào tâm trí tôi những buổi chiều thong thả như kéo đến một cái gì đó truyền thống của quê hương.
Thu Hà Nội ấp ủ vào nụ hoa loa kèn, hoa cúc vàng rực rỡ, hoa huệ trắng tinh khôi. Sáng sớm các bà, các chị tất tả đạp xe mang những bó hoa ấy đi khắp các tuyến phố lớn nhỏ. Dường như nắng thu làm hoa tươi tắn hơn, gió thu lau giọt mồ hôi trên trán các mẹ và đưa đẩy hương hoa bay xa. Hình ảnh đẹp nhất là con gái Hà Nội trong tà áo dài duyên dáng ôm hoa đi trên con đường lá bay. Hẳn người con trai nào cũng mang hình dáng đó vào trái tim mình mà xao xuyến, nhớ nhung!
Con người Hà Nội sống trong mùa thu cũng có cảm giác bâng khuâng, xốn xang trước thiên nhiên tươi đẹp. Đây có thể là khoảng thời gian tương tư của anh họa sĩ gửi vào bức tranh trên giá, là cô học trò ngượng ngùng cùng những rung động đầu tiên thơ ngây và trong sáng, chính thu đã làm tất cả mọi người thấy thật bình yên và vương vấn một bóng hình hay một cái gì cũng không rõ. Như ở giai điệu của câu hát “Đi giữa Hà Nội, lòng như thầm hỏi tôi đang nhớ ai? Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi… ”
Còn tôi, tôi nhớ về kí ức của Hà Nội xưa cổ kính và bình lặng. Nhớ những đêm trăng tròn vành vạnh, bọn trẻ rước đèn, phá cỗ tưng bừng đông vui đêm Trung thu, nhớ một cái gì mong manh, dễ vỡ dễ tan như thủy tinh của làn khói nấu cơm chiều từ mái nhà tranh, nhà ngói. Sau bao nhiêu năm, con người và cảnh vật đã có nhiều đổi thay song cái “chất thu” của Hà Nội thì vẫn thế, níu giữ tâm hồn và trái tim của con người để ai đi xa cũng nghĩ về một góc phố nhỏ của mùa thu Hà thành.
Chả biết do cột điện tôi già và cổ hủ hay không nhưng đối với riêng tôi, thủ đô xưa vẫn có nét gì khó phai mờ, nó hằn sâu vào tâm trí để mỗi khi thu về, lòng tôi lại nao nao một xúc cảm lạ lùng.
Gửi tặng bạn 💕 Tả Về Mùa Hè Hay Nhất 💕 15 Bài Văn Tả Mùa Hè Điểm 10
Bài văn cảm nghĩ về mùa thu Hà Nội chọn lọc sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng hay để áp dụng vào bài viết của mình.
Có lẽ mùa thu là mùa khiến lòng người xao xuyến và bâng khuâng nhất. Cũng bởi vậy, biết bao thi nhân khi thu đến lại có những xúc cảm lạ kì, viết nên những vần thơ đầy ý vị. Nguyễn Khuyến, Hữu Thỉnh hay Nguyễn Đình Thi đều viết về mùa thu với những nét độc đáo riêng.
Hà Nội vào thu với tiết trời chớm lạnh bên những phố dài gợi nỗi buồn man mác, gợi cảm xúc lắng đọng, thân thương. Cảm xúc mùa thu hòa trong niềm yêu nước thiêng liêng, khơi gợi niềm tự hào mãnh liệt trong tâm hồn mỗi người. Hay trong thơ Chế Lan Viên là những nỗi niềm luyến tiếc khi thu sang:
Không như xuân về mang đến sự náo nức tươi vui, vạn vật đâm chồi nảy lộc. Không như ngày hạ nắng chói khiến lòng người rạo rực, cũng chẳng giống khi đông về mang theo cái lạnh thấu xương, thu đến mang cái cảm giác nhẹ nhàng khó tả. Tiết trời êm dịu, từng cơn gió nhè nhẹ lướt qua khiến lòng người thổn thức. Không háo hức chờ đợi như xuân, thu về mang lại cho ta cảm giác khắc khoải. Vì điều gì đó, thu về khiến lòng ta muốn du dương theo điệu nhạc, hát vu vơ đôi ba câu chờ đợi, nhẹ nhàng, an yên. Thu về, lá cành mang cái màu vàng cuối mùa, từng chiếc lá rụng cũng khiến người ta bất chợt mà nhớ đến dăm ba câu hát lay động trái tim mình:
Hoa ổi góc vườn nở một khoảng trời trắng tinh khôi, hương ổi nhẹ nhẹ thấm đượm vào lòng người. Sớm thu trong lành, dịu ngọt, khiến người ta muốn tận hưởng, hít hà thứ cảm giác mà bấy lâu nay tìm kiếm. Chiều thu là khoảnh khắc ta thấy buồn, bao kỉ niệm xa xưa chợt ùa về trong ký ức. Ừ thì, thu mà, vốn dĩ thu khiến người ta thèm cảm giác đợi chờ, khắc khoải, thèm dư vị của thương yêu, và được gặm nhấm nỗi buồn một lần nữa. Đêm thu là những ánh trăng tròn viên mãn ngày rằm bên chị Hằng xinh đẹp. Đêm thu khiến ta thèm trở về ngày bé thơ, được rước đèn, đèn ông cá, đèn ánh sao, cùng ngân nga bài hát trong không khí của đêm rằm:
Chắc hẳn với mỗi người, sẽ tìm thấy những niềm vui của bốn mùa. Riêng với em, có lẽ vẫn dành trọn niềm yêu cho mùa thu ấy, thu có buồn đấy nhưng vô cùng xinh đẹp, thu không kiều diễm như mùa xuân như mang cái vẻ cổ kính nên thơ. Thu gợi nhớ, gợi thương thật nhiều..
Bài văn cảm nghĩ về mùa thu ngày khai trường hay đặc sắc sau đây đã tái hiện một khung cảnh mùa thu nhẹ nhàng, bình yên nhưng cũng không kém phần ấn tượng với hình ảnh ngày tựu trường đầy cảm xúc.
Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường bắt đầu rụng nhiều, trên trời cao những đám mây xanh trong vắt bồng bềnh, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm nồng nàn của buổi tựu trường.
Theo như ta được biết thì đối với biết bao thế hệ học sinh Việt Nam ngày nay tựu trường luôn là khoảng khắc thiêng liêng, ghi nhớ sâu đậm những cảm xúc khó tả hồi hộp, háo hức và sự bỡ ngỡ của ngày tựu trường không bao giờ phai nhòa trong tâm trí. Và giờ tôi cũng như vậy, mặc dù năm nay là tôi đã lên lớp 8, đã trải qua 7 năm học, 7 buổi tựu trường, kể từ ngày tôi biết cắp sách đi học thế mà cái cảm giác háo hức, hồi hộp ấy chưa bao giờ phai nhạt đi trong tâm trí tôi.
Tôi còn nhớ ngày hôm ấy là một ngày trời se se lạnh cảnh vật đều bị phủ bởi một lớp sương thu mỏng, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi và dắt đi trên đường bê tông dài và hẹp. Con đường này quả thật đã trở nên quen thuộc với tôi, nhưng ngày hôm đó tôi lại cảm giác con đường này rất lạ, hình như nó khác với con đường mọi ngày tôi vẫn đi lúc đó tôi không hiểu nên đã hỏi mẹ rằng “ Mẹ ơi, vì sao con đường hôm nay lạ vậy hả mẹ?” mẹ tôi mỉm cười ôm tôi vào lòng và nói với tôi rằng “Con đường mà ngày hôm nay con đi là con đường đi học, bắt đầu từ hôm nay con đường này sẽ dẫn con đến mái trường thân thương chứ không dẫn con đến nơi mà có các trò chơi đu, cầu trượt… nữa”.
Lúc đó tôi không hiểu lắm nhưng cũng không hỏi lại. Tuy nhiên thì tôi cũng hiểu được một phần là “hôm nay là ngày đầu tiên tôi đi học!”. Và đến ngày hôm nay tôi vẫn luôn tự hỏi chính bản thân mình rằng: “Vì sao đã trải qua 7 buổi khai trường rồi mà mình vẫn còn hồi hộp, háo hức cái cảm giác của ngày đầu tiên đến trường?” và tôi cũng đã từng nghĩ nếu một ngày kia, khi đã qua tuổi học trò, tuổi thơ ấu, tất cả chỉ còn là dư âm đọng lại thì sao nhỉ?
Dù trong tôi vẫn còn một chút con trẻ, một chút học trò vẫn luôn chờ trực sống dậy mà lại bị những lo toan từ cuộc sống dìm xuống và hòa tan thì liệu nó có thể bộc phát được không? Nếu lúc đó tôi muốn gặp lại thầy cô và bạn bè xưa cùng một lúc thì bao giờ mới có thể làm được? Tất cả có lẽ sẽ mãi mãi chí là một dấu hỏi.
Ngày khai trường thứ 8 của tôi. Dường như tâm trí tôi vẫn có cái cảm giác đó, nhưng trong thâm tâm, suy nghĩ tôi lại khác. Nếu 7 năm trước tôi chỉ có cái cảm giác bồi hồi háo hức thì ngày hôm nay tôi còn mang một suy nghĩ về một ngày kia. Buổi tựu trường sẽ mãi mãi là chùm sao ngân hà ló rạng lung linh cùng với những suy nghĩ sâu lắng đầy sắc mầu của tôi để rồi tôi sẽ phải nhớ để tìm về.
Hướng dẫn các em học sinh cách viết văn cảm nghĩ về mùa thu ngắn nhất nhưng vẫn đảm bảo các nội dung chính của bài.
Nếu như mùa xuân là mùa để cây cối đâm chồi nảy lộc, với tiết trời đầm ấm, là sự chia sẻ của con người với thiên nhiên đất trời bao la hùng vĩ. Mùa hè với những tiết trời oi bức nóng nực cùng những tia nắng chói chang và những cơn mưa rào bất chợt.
Thì mùa thu là mùa của sự mát mẻ bình yên với những cơn gió heo may se se lạnh với những chiếc lá vàng đung đưa trước gió. Màu đông chính là khi thời tiết trở nên vô cùng lạnh lẽo rét buốt cũng là quãng thời gian để con người có thể xích lại gần nhau nhìn lại những gì đã qua. Cả bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông đều có những giá trị riêng của mình. Nhưng em thích nhất là mùa thu.
Khi trời vào thu không khí trở nên trong trẻo hơn, bầu trời cao trong xanh với những đám mây trắng vô cùng tươi đẹp. Những tia nắng của mùa thu vô cùng dịu nhẹ không gắt gỏng như nắng hè cũng không lạnh lẽo như mùa đông. Nắng thu nhẹ nhàng len lỏi qua những kẽ lá trên những cánh đồng lúa vàng vô cùng rực rỡ.
Mùa thu tới cũng là khi mùa hoa cúc nở rực rỡ với những loại cúc như cúc tím cúc vàng, cục trắng, cúc họa mi vô cùng rực rỡ khoe sắc trong nắng vàng. Khi mùa thu tới, những chiếc lá vàng, màu vàng giòn tan của sắc nắng trưa, màu vàng nâu của những chiếc lá cây khi chuẩn bị phải lìa xa cành cây của mình, rời xa nơi đã sống những ngày ấm êm để hóa kiếp của mình…Trên những con phố màu vàng của những chiếc lá rơi tạo thành một tấm thảm vàng rực vô cùng rực rỡ như muốn níu chân người qua lại.
Mùa thu với những giấc mơ trưa dịu dàng đưa con người tới những vùng trời bình yên, vỗ về con người giảm bớt sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thị thành với những bon chen mưu sinh trong cuộc sống bình thường.
“Mùa thu ơi mùa thu…”- Tiếng hát vang lên qua tai nghe từ chiếc máy nghe nhạc. Trời đầu đông. Thời tiết se se lạnh nhưng nắng vàng vẫn len lỏi khắp nơi. Nhìn cảnh tượng này, sao tôi thấy giống mùa thu đến lạ!…
Mùa thu – hai từ đem đến cho tôi cảm giác thoải mái, dễ chịu. Bầu trời trong vắt, không một mảnh mây vắt ngang. Nó trong đến nỗi tưởng chừng mỗi khi tôi nhìn lên là thấy cả bên kia Trái Đất. Ôi sao tôi yêu bầu trời mùa thu đến thế! Và tôi yêu cả vạn vật mùa thu nữa! Tiếng chim thánh thót vút cao, ngân dài, ngân mãi kéo tôi đi tận nơi xa mơ hồ… đến khi thôi cất tiếng mới giật mình quay lại hiện tại.
Lá cây cũng sang màu. Cái thứ màu đỏ đồng của lá bàng, màu vàng vàng của bằng lăng, màu nâu nâu héo lụi của cây cau… sao mà đẹp đến vậy! Nhưng chớ có nghĩ mọi vật đang tàn lụi. Bấy giờ, hoa hồng mới vươn mình kiêu hãnh khoe lớp áo khoác mịn màng với nắng. Bấy giờ, hoa sữa mới trổ bông, xòe ra những quả cầu hoa trắng xanh, thơm nồng nàn. Bấy giờ, hoa cải mới e lệ diện bộ váy vàng tươi sáng. Và bấy giờ, mùi hoa quế thơm thơm mới đậu trên tà áo dài con gái đi khắp phố phường để hòa mình vào gió…
Một thứ đặc trưng không lẫn vào đâu của mùa thu – gió heo may. Từng cơn gió không rít, không thét gào như gió mùa Đông Bắc, không ẩm ướt như gió mùa xuân, không nóng như gió mùa hạ, mà man mác, nhè nhẹ riêng biệt. Không hiểu sao tôi lại yêu gió heo may đến thế! Yêu nhiều lắm, nhưng cũng vừa đủ để người khác yêu thêm. Cơn gió ấy, nó thích chơi đùa cùng cành phượng tàn hoa đang ra quả. Nó thích lùa vào tóc người thiếu nữ thanh thanh, mang hương tóc ngọc lan vào lòng tôi. Nhưng nó thích nhất là uốn mình qua gánh hàng hoa của các chị mỗi buổi sáng tinh mơ nhịp bước chân vào phố.
Nhắc đến mùa thu là không ai quên được ngày tựu trường – cái ngày mà tuổi học trò luôn mong ước. Ấy là lúc nắng dịu dàng không đâu cho đủ. Tiếng chim hót báo hiệu đã hết mùa vui chơi, quay trở về với vòng tay bạn bè và thầy cô. Ra trường, đứa nào cũng tíu tít kể về mùa hè bất tận của mình. Và ở một góc nào đó, trái hẳn với sự ồn ã kia, các em lớp Một đang ngỡ ngàng, lo sợ. Đó là sự khởi đầu cho một nụ cười mới tại một ngôi trường mới. Nụ cười ấy mới dễ thương làm sao!
Đối với người Hà Nội, thì thứ tượng trưng cho mùa thu của họ là cốm làng Vòng. Từng hạt cốm dẻo, xanh mướt như sự thanh khiết của lá sen và sữa thơm bầu trời thu. Hạnh phúc biết bao khi cái thức quà thần tiên ấy thuộc về mùa thu của tôi!
Đến cuối thu, vạn vật phải cố gắng lắm mới không cảm thấy tiếc nuối một mùa bình dị yêu thương. Lá bàng kiềm chế không rụng rơi để khoe sắc thắm vào ngày trong trẻo cuối cùng. Nắng gồng mình không tắt để người ta biết được mùa thu sắp đi qua. Hoa cố tươi cười để tạm biệt một mùa thương mến. Chỉ có mùa thu là vẫn vô tư, sống hết mình như thể ở lại mãi với tôi vậy…
Hết thu vạn vật như mất đi sự vui tươi thường ngày. Nhưng đúng vào lúc buồn nhất thì mùa thu để lại một thứ kỳ diệu cho tôi: Nắng! Nắng vẫn thế, dịu dàng như đang sống trong mùa thu. Và tôi yêu nắng như yêu chính mùa thu của tôi. Có lẽ nắng cũng yêu tôi, như mùa thu yêu tôi…
Ngoài Biểu Cảm Về Mùa Thu, Tặng thêm cho bạn 💔 Văn Tả Mùa Xuân Lớp 2 💔Hay nhất
Mỗi người đều có một cảm nhận khác nhau về vẻ đẹp của quê hương. Nhưng đối với tôi, mùa thu ở quê tôi sao mà thanh bình, đẹp đẽ đến thế.
Mùa thu đã về. Ánh nắng vàng trong veo như thuỷ tinh nhảy nhót trên những cánh đồng quê. Bầu trời cao hơn, xanh thăm thẳm ra. Cơn gió nhẹ đưa hương hoa sữa nồng nàn. Những đám mây trắng như bông đang lững lờ trôi. Từng đàn chim ríu rít hót vang. Cánh đồng lúa chín vàng, thơm mùi lúa mới. Hoa cúc, hoa sen rủ nhau khoe sắc tuyệt đẹp. Với tôi, mùa thu đem lại nhiều cảm nhận. Khi nhìn những chiếc lá vàng rơi với tiếng gió thổi nhè nhẹ, tôi nhớ về những kỉ niệm đã xa. Đôi khi, tôi thích ngồi bên hồ sen, ngắm nhìn những hàng cây đang thay lá.
Khi thu sắp qua, những hàng cây sẽ tàn phai dần, nhựa sống trong nó như bị đóng băng, đông đặc lại và không còn tuôn chảy nữa. Từng chiếc lá bắt đầu khô dần và thi nhau rụng rơi khỏi cành. Gió càng mạnh và thời tiết càng lạnh thì lá vàng rơi rụng nhanh. Những chiếc lá trên cây giờ chỉ thấy nằm la liệt phía dưới đất, lìa khỏi cành rồi chúng càng khô héo nhanh hơn và sẽ mất đi hoàn toàn sức sống.
Những bước đi xào xạc của tôi lẫn trong những chiếc lá khô nghe như chúng đang bị vỡ ra từng mảnh nhỏ. Hình tượng này làm tôi liên tưởng đến con người khi đang đau khổ thì chẳng còn sức sống nữa. Nhưng qua hình ảnh đó, tôi lại nghĩ rằng những chiếc lá héo hon, tàn khô đang rụng rơi khỏi cành cây chẳng khác gì những nỗi buồn khổ được lìa khỏi thân thể của chúng ta.
Đối với tôi, mùa thu đã gợi nhắc thật nhiều cảm xúc. Tôi yêu mùa thu thật nhiều – một mùa đẹp nhất trong năm.
Những lời thơ trong bài Đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã gợi nhắc trong lòng mỗi người về một mùa thu tuyệt đẹp của đất nước. Và trong bốn mùa, mùa thu Hà Nội có lẽ là mùa đẹp nhất.
Khi mùa thu về, bầu trời trong xanh và cao vời vợi. Nắng không còn gay gắt như những ngày hè oi bức, mà trở nên chan hòa hơn. Làn gió heo may kéo về khiến cho thời tiết se lạnh. Cô mây thì dạo chơi quanh những ngọn núi phía xa. Ông mặt trời dậy thật sớm để đánh thức mọi người sau một đêm dài. Vài chú chim nhỏ cất tiếng hót đón chào ngày mới.
Phía xa ngoài cánh đồng, những bông lúa trĩu nặng đang đung đưa theo làn gió mát từ xa thổi vào. Hương lúa chín thơm mang hơi thở của làng quê khiến ai ngửi thấy cũng đều say mê. Đâu đó trên khắp phố phường, hương hoa sữa nồng nàn. Không khí mùa thu khiến cho con người cảm thấy thật dễ chịu, nhẹ nhàng.
Nhưng mùa thu không chỉ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên. Mùa thu đặc biệt nhất là khi nhắc về hương cốm mới. Thứ đặc sản đã không còn xa lạ gì của Hà Nội mỗi độ thu về. Từng hạt cốm xanh mang cái tinh hoa của trời đất được làm ra dưới bàn tay khéo léo của người nông dân. Nếu trong một buổi chiều thu, dạo quanh phố phường được ngắm lá vàng rơi, thưởng thức cốm thì còn gì tuyệt vời hơn.
Không dừng lại ở đó, mùa thu còn có những kỉ ức đẹp đẽ của tuổi thơ tôi. Đó là đêm trăng Trung Thu được rước đèn, phá cỗ thật vui vẻ. Đặc biệt nhất, mùa thu cũng là mùa tựu trường. Sau một kì nghỉ hè dài, học trò được gặp lại thầy cô, bạn bè. Cảm xúc thật hân hoan, mà háo hức.
Tôi yêu biết bao mùa thu – mùa của những điều đẹp đẽ, lãng mạn. Mùa của tuổi học trò thân thương. Một mùa thu nữa lại về đem đến cho tôi những cảm xúc thật tuyệt vời.
Chia sẻ thêm 🌼 Tả Mùa Xuân Hay 🌼 bên cạnh văn Biểu Cảm Về Mùa Thu
Đề bài yêu cầu “Phát biểu cảm nghĩ về mùa thu thật ấn tượng” – với đề bài này thì các em học sinh không nên bỏ qua bài văn đặc sắc sau đây.
Có biết bao lí do để tôi yêu mùa thu – một mùa đẹp trong vòng tuần hoàn của thời gian trôi chảy: xuân – hạ – thu – đông.
Thuở bé, tôi được nghe những câu chuyện “Vì sao hoa cúc có nhiều cành?” mà không khỏi xúc động trước tình cảm của em bé đối với bà mẹ. Phải chăng bóng hoa cúc – đặc trưng của mùa thu là minh chứng cho tình mẫu tử cao đẹp ấy? Dần lớn lên, bài học ấy vẫn mãi theo tôi. Chính loài hoa này đã dạy cho tôi biết thế nào là tình yêu, là sự hy sinh, là hạnh phúc? Có lẽ vậy nên mỗi độ thu về, được ngắm loài Liêu Chi, lòng tôi lại trào dâng bao nỗi niềm khó tả, nó đánh thức và nhắc nhở tôi bài học về lòng hiếu thảo.
Nhắc đến mùa thu tôi lại nhớ đến những chiều tà! Thật thanh thản khi thả mình giữa những cơn mưa lá, bước dần lên thảm lá vàng rụng dày, sực nức một hương thơm thôn dã. Hít thở cái hương vị thiên nhiên mang dáng vẻ đồng nội ấy đã thấy lòng mình mênh mang. Chợt nghe đâu đây lời ru ngọt ngào: “À ơi! Gió mùa thu mẹ ru con ngủ (…) Hãy ngủ, ngủ đi con, Con hời con hỡi…”, lòng ta lại nao nao, bâng khuâng đến lạ.
Nhưng đặc biệt, tôi yêu mùa thu vì đây là mùa mà tôi cất tiếng khóc chào đời. Thật hạnh phúc biết bao bởi từ lúc hé mắt nhìn cha mẹ, người thân, cuộc đời tôi lại được đón nhận khoảng trời thu, làn gió thu, ánh nắng thu. Cứ mỗi mùa thu, tôi lại háo hức chờ đón ba ngày vui cùng lúc: một là ngày sinh nhật với riêng mình, hai là ngày tết trung thu với cả niềm vui của trẻ con trên đời này và ngày thứ ba là ngày tựu trường tràn đầy hạnh phúc khi được mẹ đưa đến trường trên con đường thân thuộc – đến cái nơi mà khi chiếc cổng mở ra là có biết bao điều kì diệu.
Thu đẹp lắm nhưng thật khó thể hiện ra. Bao bức tranh tôi đã từng được ngắm, được xem, song bức tranh thu trong tâm hồn tôi mãi đẹp hơn cả. Xin cảm ơn mùa thu đã cho tôi bao xúc cảm, niềm hạnh phúc lớn lao. Và trên tất cả là thu đã dang rộng vòng tay chào đón tôi khi tôi cất tiếng khóc đầu đời. Yêu lắm, mùa thu ơi!
Bài viết Cảm nghĩ về mùa thu văn lớp 7 giàu hình ảnh đã thể hiện trọn vẹn cảnh sắc bình yên mùa thu bằng những hình ảnh miêu tả đặc sắc.
Với riêng tôi, bốn mùa trong năm, mỗi mùa đều có những sắc màu riêng, góp nhặt nên những năm tháng đầy ý nghĩa của cuộc đời. Cứ mỗi độ thu sang lòng tôi lại ngập tràn bao cảm xúc xốn xang, bao nỗi xuyến xao cứ ùa đến dâng tràn.
Trong tôi, mùa thu với những bông cúc vàng rực rỡ, có những chùm hoa nắng vô tư đậu trên vai áo cùng tiếng chim hót ríu ran lấp ló trong những lùm cây hai bên đường đưa chân tôi tới trường trong rạo rực niềm vui của buổi tựu trường. Ngày khai giảng, cả cô và trò đều háo hức đón đợi tiếng trống trường vang lên trong tà áo trắng tinh khôi. Ghi mãi nơi tôi là hình ảnh những em bé lần đầu tiên được mẹ dắt tay đến lớp với bao bỡ ngỡ trước ánh mắt vỗ về của mẹ và ánh mắt trìu mến, đong đầy yêu thương của cô.
Yêu mùa thu, tôi yêu khoảng trời cao, trong xanh vời vợi, có sắc nắng hanh hao đến nao lòng, có làn gió mát trong, mơn man đùa nhẹ trên mái tóc mây mềm của người thiếu nữ. Chợt thấy tâm hồn mình xao động trước loài hoa tim tím, dịu dàng nở đầy hai bên vạt đường, cánh hoa mỏng mảnh, rung rinh trong nắng sớm.
Gieo vào lòng tôi bao cảm xúc là hình ảnh cánh đồng quê xanh tươi, mỡ màng hòa cùng nắng thu chấp chới. Lá lúa trông xa như những bàn tay nhỏ xíu đong đưa, vẫy chào các bác nông dân ra đồng chăm bón. Vài ba cánh cò chao lượn trên nền trời xanh thẳm soi bóng xuống những con mương có làn nước trong veo gợi khung cảnh thanh bình, yên ả nơi quê nhà.
Thu sang, ấy là lúc mùa cưới lại về. Ở quê tôi, hầu như nhà nào cũng đều có một giàn trầu xanh mướt sau vườn. Những ngọn trầu to mập, thân vươn dài quấn quýt bên cây cau địu buồng quả sai chíu chít. Từ những giàn trầu ấy đã tác thành cho biết bao đôi lứa nên vợ, nên chồng. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”- tục lệ truyền thống thấm đẫm nét văn hóa Việt của dân tộc ta vốn có từ xa xưa đến nay vẫn được gìn giữ.
Đêm mùa thu, nếu ai đã từng một lần thả hồn mình trong gió để tận hưởng mùi hương hoa sữa nồng nàn mới cảm nhận được cái hồn của thiên nhiên có sức quyến rũ như thế nào. Mùi hương hoa sữa thanh tao ấy lan tỏa trong không gian, buông rơi trên mái tóc, len nhẹ trong tâm hồn như một bản tình ca ngọt ngào làm vơi dịu đi bao lo toan, phiền muộn của cuộc sống ngày thường. Thấy mình như trẻ lại khi lạc vào đám rước đèn lồng của bầy trẻ thơ trong đêm hội Trung thu. Dưới ánh trăng rằm vằng vặc, mâm cỗ được bày ra với đủ các loại bánh kẹo và hoa trái với những bưởi đào, ổi thơm…
Nhắc đến mùa thu là nhắc đến những cảm xúc rộn ràng trong tim mỗi người, ẩn chứa niềm kiêu hãnh tự hào hòa chung với không khí của cả dân tộc trong ngày lễ kỷ niệm chào mừng Cách mạng tháng Tám thành công và ngày Quốc khánh 2/9. Khắp nơi tưng bừng, rộn rã, rợp trời cờ và biểu ngữ tung bay trước gió. Trên khắp các nẻo đường, dòng người tấp nập ngược xuôi, gương mặt ai cũng hân hoan rạng ngời. Dường như trong mỗi người đều dâng lên một niềm xúc động và tưởng nhớ đến công lao của thế hệ cha ông, những người đã viết lên những trang sử hào hùng làm rạng danh non sông, đất nước. Và trong ta lại thầm nhắc lòng mình phải gắng sức hết mình để chung tay xây dựng Tổ quốc đẹp giàu.
Cảm xúc thu sang, ấy chính là cảm xúc trước khung cảnh thu rất đỗi bình dị, thân thương mà lại cũng hết sức quyễn rũ, làm xao động lòng người. Cảm xúc ngập tràn niềm tự hào kiêu hãnh trong ngày lễ độc lập của dân tộc.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Tả Cảnh Mùa Xuân Trên Quê Hương Em 🌹ngoài văn mẫu Biểu Cảm Về Mùa Thu
Khi chiếc lá ngả màu vàng úa, làn gió khẽ mơn man đổ mùa xô nghiêng trên vai, khi những con đường se lạnh co rúm mình lại trong màu hoàng hôn tím ngắt, lòng chợt buồn man mác khi nhớ về những điều đã qua nghĩa là thu đã về
Trời thật xanh và nắng thật nhạt nhưng cũng đủ để nhận thấy sự tồn tại của nắng. Sẽ không có gì khoan khoái bằng cảm giác đi trong tiết trời se lạnh, trên con đường dài ngun ngút hai hàng cây và lắng tai nghe tiếng lá vàng xào xạc dưới chân. Thỉnh thoảng lại có cơn gió nhẹ thổi qua nựng nhẹ các cánh hoa cúc vàng bên đường như thầm khen cho vẻ đẹp bình dị của loài hoa có hương thơm rất nhẹ này. Đó là những gì tôi tưởng tượng ra và thường thấy trong các giấc mơ của mình
Theo tháng năm, tôi lớn lên và đại học. Những năm tháng lăn lộn ở giảng đường cùng vô vàn những kỳ thi. Và sau những kỳ thi là giấc mơ – Giấc mơ của tôi luôn là những quyển sách dày cộp với những ghi chú chi chít và đường gạch bằng bút dạ quang xanh đỏ.
Rồi tôi cũng ra trường, đi làm, không còn bị điểm số ám ảnh nữa, nhưng luôn có cái gì đó làm tôi không có mấy khi được mơ tiếp những giấc mơ mùa thu bỏ dở. Thậm chí có lúc tôi không còn nhớ mình thích mùa thi đến thế nào.
Trời xanh lắm, xanh ơi là xanh nhưng không phải là xanh lè như cái kiểu tôi hay nói chuyện. Nắng cũng rất vàng nhưng lại cũng rất dịu. Cây cối vừa thay chiếc áo mới, chiếc áo vàng điểm hoa đỏ – nhìn đẹp cứ như những cô gái mười tám đôi mươi. Đẹp tới mức gió không nỡ lay động mà chỉ nhẹ nhàng vỗ về vừa đủ tạo ra những âm thanh xào xạc vui tai và đem hương lá khô thoảng nhẹ khắp không gian.
Tôi cũng không biết là mùa thu ở đây đẹp hơn hay mùa thu trong mơ của tôi đẹp hơn. Nhưng tôi đã ngồi liên tục hàng giờ trong công viên, qua nhiều ngày liên tiếp để đắm mình trong sắc thu, trời thu và để nghe tiếng vọng của mùa thu, hương thơm và hơi thở của mùa thu.
Tại chúng tôi còn có 🦋 Văn Tả Mùa Hè Lớp 2 🦋bên cạnh Biểu Cảm Về Mùa Thu
Muốn hoàn thành tốt các bài văn biểu cảm về sự vật quanh ta thì các em học sinh nên tham khảo bài văn biểu cảm về mùa thu lớp 10 hay xuất sắc sau đây.
Khoảnh khắc giao mùa luôn là những khoảnh khắc để lại trong ta nhiều dư vị tình cảm nhất. Cho ta những bâng khuâng những nghẹn ngào và cả những bỡ ngỡ. Cái nắng oi ả của trời hè tan biến nhường chỗ cho cái tiết trời dịu dàng, mơn man. À thì ra thu đã sang rồi ư?
Mùa thu đến mang theo hơi gió lành lạnh mỗi buổi sớm mai thức giấc, mang theo những áng sương nhè nhẹ phả vào trong gió, trong làn khói bếp, mơ mơ ảo ảo và đậm chất thi vị. Mùa thu, bầu trời như đẩy lên cao hơn, trong xanh vời vợi , sắc nắng hanh hao làm ửng hồng bao đôi má người thiếu nữ. Gió thu nhè nhẹ, mơn man vờn vào mái tóc các bà các mẹ, làm thướt tha bao tà áo nâu mềm mại. Nắng mùa thu không nóng và quá gắt như mùa hè mà chỉ đong đưa, đủng đỉnh làm duyên, đầy ý nhị và tình tứ, đủ chiều lòng bao tâm hồn người dân Bắc Bộ.
Những cơn gió heo may lành lạnh của thu Bắc Bộ vương vào lòng người những dư âm ngọt ngào. Đó là những ngày tan tầm, lang thang dạo bước trên cung phố quen thuộc, mua cho mình một đóa cúc họa mi trắng, hít hà cái hương thơm ngào ngạt và cảm nhận cái thu của đất trời. Đó còn là những con đường đầy lá vàng rơi ta lang thang dạo bước dưới ánh nắng trời chiều, miên man suy nghĩ về dòng đời chảy trôi. Hay phải chăng đó cũng là những giây phút thư giãn tản bộ qua những góc phố cổ lan tỏa hương hoa sữa thân thuộc, đắm chìm trong vẻ đẹp lãng mạn, hữu tình, nồng nàn và quyến rũ nhường nào.
Mùa thu còn là những nụ cười vui tươi rạng rỡ của những em học sinh, sinh viên nô nức đến trường. Các em chỉn chu trong những bộ quần xanh áo trắng, khăn thắt vai quàng đỏ, chuẩn bị tập mới, sách mới, ba lô mới tung tăng cũng bè bạn tới lớp. Một mùa thu khởi đầu cho một năm học mới với bao khát vọng thành công, thể hiện quyết tâm chinh phục tri thức của cả thây và trò trên khắp cả nước.
Tạo hóa ưu ái ban cho Bắc Bộ mùa thu cũng là dịp người dân thôn quê tiến hành thu hoạch mùa màng. Những cánh đồng đang độ chín, trĩu bông, vàng ươm trải dài tít tắp. Cả một không gian như tràn trề sắc vàng óng ả. Một màu vàng chứa đựng bao niềm hứng khởi, bao ước mơ và khát khao của người nông dân chất phác về một mùa mang bội thu.
Nhắc đến mùa thu, trong tuổi thơ mỗi chúng ta làm gì có đứa trẻ nào quên được đêm rằm phá cỗ. Tết trung thu, ánh trăng tròn vành, êm ái, dịu mát, long lanh, tỏa xuống như đổ ánh bạc làm cho cảnh vật được tắm táp thỏa thuê. Ánh trăng sáng soi chiếu cho lũ trẻ con rước đèn, phá cỗ, trông răng. Mâm cỗ tết trung thu được bày biện với đủ loại hoa quả đặc trưng của mùa: nào hồng; nào thị; nào ổi; nào cốm; nào bánh dẻo; bánh nướng;…Mùi thơm phả vào trong gió làm nức mũi, trêu gọi những đứa trẻ háu ăn.
Mùa thu cũng là giây phút đoàn viên, là khi con người ta dành cho mình một chốn an yên, một chút thảnh thơi trong tâm hồn để yêu thương bản thân. Với tôi mùa thu như làn gió nhẹ tắm mát tâm hồn, và cơ thể mỏi mệt sau những tháng ngày phong ba, miệt mài. Mùa thu cho tôi cảm giác thư thái; khoan khoái; dễ chịu. Nhịp sống con người vì thế cũng bớt xô bồ; vội vã hơn chừng nào.
Nghĩ về thu, tôi nhớ đến những bữa cơm tối gia đình quanh bát canh cua, quả cà, rau muống, những giây phút đoàn viên đáng giá đến nghẹn lòng. Và rồi ta lại tất bật lại cố gắng chuẩn bị sắm sửa cho các công việc cuối năm.
Bản thân mỗi người đều chọn cho mình một mùa để nhớ, một mùa để luyến lưu. Mùa đó có thể là mùa của mối tình ngọt ngào hoặc có lẽ là mùa của những hoài niệm không xa. Còn với tôi, tôi yêu mùa thu bởi cái lai láng, bảng lảng đỏng đảnh đầy quyến rũ và tràn ngập xúc cảm mà tạo hóa ban tặng. Mùa thu ấy trong tôi là những giây phút vấn vương đến diệu kì.
Tặng 🔰Thẻ Cào Viettel Miễn Phí🔰 dành cho người may mắn nhất
Làm Văn Hay: Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ “Rằm Tháng Giêng”
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh.
Bài làm
Mở bài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Là một trong ba danh nhân văn hóa thế giới của người Việt. Không những thế, Hồ Chí Minh còn là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam. Bác đã để lại cho đời nhiều tác phẩm văn học giá trị và ý nghĩa. Trong đó, bài thơ “Rằm tháng giêng” được viết vào thời kì kháng chiến chống Pháp cũng là một tác phẩm văn học yêu nước tiêu biểu.
Thân bài
Bài thơ này được viết vào năm 1948. Đây là thời kì kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn quan trọng. Là khoàng thời gian Hồ Chí Minh cùng Đảng mở cuộc họp về tình hình quân sự 1947-1948. Bài thơ được viết sau khi Bác kết thúc cuộc họp với cán bộ. Trong cảnh sắc thiên nhiên bao la, trăng tỏa khắp dòng sông. Thưởng thức cảnh thiên nhiên xinh đẹp với núi rừng hùng vĩ và ánh trắng mộng mơ, Hồ Chí Minh đã làm nên bài thơ:
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền .
Từ thể thơ thất ngôn, bài thơ này về sau đã được Xuân Thủy dịch sang tiếng Việt theo thể lục bát và đặt tên “Rằm tháng giêng”:
Khuya về bát ngát trăng ngân dầy thuyền.”
Bản dịch này đã lột tả được gần như toàn bộ nội dụng và ý nghĩa của bài thơ mà Hồ Chí Minh sáng tác đêm ấy. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thực lòng yêu thiên nhiên, đất nước của Bác Hồ.
Với hai câu thơ đầu:
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.”
Ta đã thấy được cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp nơi đây. Nước sông bao la, đất trời bạt ngàn hòa quyện một cách đầy huyền ảo với ánh trắng ngày xuân. Trăng rằm ngày xuân sáng vằng vặc, chiếu soi khắp đất trời thiên nhiên. Một khung cảnh đây thơ mọng hiện ra trước mắt ta “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.” Với Hồ Chí Minh, cảnh đẹp nơi đây đã hòa quyện cùng mùa xuân: sông xuân, nước xuân, trời xuân. Cái nét tươi đẹp, tràn đầy sức sống của mùa xuân đã thấm đượm vào thiên nhiên và hòa chung vào tấm lòng của nhà thơ.
Hai câu tiếp theo:
Khuya về bát ngát trăng ngân dầy thuyền .”
Dù thưởng thức phong cảnh thiên nhiên hữu tình, Hồ Chí Minh vẫn không quên nhiệm vụ. Bác Hồ và các vị lãnh đạo vẫn tiếp tục bàn việc nước, bàn sách lược kháng chiến. Dù kháng chiến gian khổ, việc quân như núi, khiến lòng người rối bời. Những Bác Hồ vẫn giữ đúng tâm thái của một kẻ lãnh đạo tài tình. Khi công việc kết thúc, Bác vẫn tự tại và thả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên.
Thật thơ, thật lãng mạng, cảnh sắc thiên nhiên lúc này thật tuyệt diệu. Giữa dòng bàn việc quân cơ. Con thuyền nhỏ chở Bác và cũng chở luôn cái lấp lánh tuyệt đẹp của ánh trăng. Vẻ đẹp này cũng như tâm hồn Bác lúc này, thật trong sáng và tự do. Hình ảnh một người một thuyền với ánh trăng sáng thật lãng mạn biết mấy. Có lẽ, Hồ Chí Mình mang trong mình một phong thái thật khoáng đạt và ung dung. Sự tự tin, lạc quan của nhân vật đã tạo nên một hình ảnh độc đáo cho tác phẩm.
Kết bài
Tác phẩm “Rằm tháng giêng” của Hồ Chi Mình đã mang lại cho ta những cảm xúc tuyệt vời. Sự tươi đẹp và lãng mạn của thiên nhiên mang đến những cảm nhận thật thanh tao và thuần khiết. Đồng thời, ở đâu đó trong bài thơ, vẫn có những khoảng lặng, những nét sâu lắng của một vị lãnh tụ. Có thể nói, Hồ Chí Minh vừa là một vị lãnh tụ tài ba, vừa là một thi si tuyệt vời của đất nước ta. Qua bài thơ, ta có thể học hỏi thêm được phong thái và tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh.
Bài Liên Quan: Điều hướng bài viếtPhát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng ❤️️ 15 Mẫu
Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất ✅ Chọn Lọc Những Bài Phân Tích Đặc Sắc Nhất Về Bài Thơ Nổi Tiếng Của Hồ Chí Minh.
Bài Thơ Rằm Tháng Giêng có thể nói là một trong những bài thơ chữ Hán đặc sắc nhất của Hồ Chí Minh.
Lập Dàn Ý Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng giúp các em học sinh không bỏ sót những kiến thức quan trọng về bài thơ.
Dàn ý phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng
Mở bài
Giới thiệu chung về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Rằm tháng giêng.
Thân bài
a. Cảm nghĩ về 2 câu thơ đầu:
Phiên âm:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Dịch nghĩa:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
→ Miêu tả không gian rộng lớn, thoáng đãng, tràn ngập ánh sáng dìu dịu của mặt trăng.
→ Miêu tả khung cảnh mà sông nước và bầu trời như được dung hòa, đan cài làm một bởi mùa xuân
→ Khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong một đêm trăng rộng lớn, bát ngát vô cùng sinh động tươi đẹp, uyển chuyển.
b. Cảm nghĩ về 2 câu thơ cuối:
Phiên âm:
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dịch thơ:
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Hình ảnh con người: “bàn bạc việc quân” – hình ảnh con người là những chiến sĩ – tập trung bàn bạc, lo lắng cho việc nước, việc dân – dù là trong 1 đêm trăng đẹp đến như vậy.
Thời gian:
→ Trăng như một người chiến sĩ cũng thức cùng, lắng lo cùng với các chiến sĩ
→ Tất cả cùng tập trung, cùng đồng lòng vì sự nghiệp bảo vệ tổ quốc
→ Hình ảnh ánh trăng sáng trải đầy thuyền còn tượng trưng cho tương lai sáng rọi phía trước của đất nước khi có những con người hết lòng, hết sức vì tổ quốc như vậy.
Hình ảnh song hành trăng – con người (nghệ sĩ – chiến sĩ) quen thuộc thường được nhắc đến trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh, như:
→ Khẳng định sự giao hòa cảm xúc của nhà thơ: vừa là chiến sĩ hết lòng vì đất nước, vừa là nhà thơ với tâm hồn nhạy cảm.
Kết bài
Tóm lược đặc sắc nội dung, nghệ thuật bài Rằm tháng giêng
Những cảm nhận, tình cảm của em dành cho bài thơ Rằm tháng giêng.
Ngoài Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng 👉 15 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Rằm Tháng Giêng [Siêu Hay]
Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng gợi ý những cảm nhận hay và mới mẻ về bài thơ.
Bài thơ này được Bác Hồ sáng tác vào đúng dịp Rằm tháng Giêng, năm Mậu Tý (1948), miêu tả cảnh đêm trăng, và buổi họp bàn việc quân của Bác bí mật trên sông nước ở chiến khu Việt Bắc, khởi đầu kế hoạch cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lúc đó đang bước sang năm thứ ba.
Bài thơ Rằm tháng Giêng còn là một bài thơ tả cảnh để tả tình-bài thơ của một bậc thi nhân – bài thơ của một chiến sĩ cách mạng lỗi lạc.
Cảnh mùa xuân của Bác trong bài thơ Rằm tháng Giêng là một bức tranh, sao vô cùng khoáng đạt:
Chỉ trong hai câu thơ tả cảnh đó, Bác dùng tới ba từ xuân liên tiếp một cách ngẫu nhiên mà rất có dụng ý nghệ thuật. Mỗi từ xuân để tả một hình ảnh: Trăng – Sông – Bầu trời.
Miêu tả ba hình ảnh đó, Bác dùng từ “lồng lộng” và “lẫn” chính xác và khéo léo thuần thục trong ngôn từ như một hoạ sĩ danh tiếng có tài pha màu, phác thảo cảnh vật… vẽ nên một bức tranh xuân hài hoà và trải rộng khắp mênh mông.
Mùa xuân đến không chỉ trên những chồi non lá biếc, mà tất cả vầng trăng đến dòng sông, bầu trời trong thơ Bác lúc này đều đầy sức sống của mùa xuân: “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”.
Rằm xuân cũng là ngày Rằm tháng Giêng – một đêm trăng rằm tuyệt đẹp – một vẻ đẹp đến ngỡ ngàng.
Trăng trở thành trung tâm kỳ vĩ của vũ trụ trong đêm rằm xuân – trăng trải rộng trên dòng sông – đem mùa xuân kỳ diệu đến cho dòng sông. Mùa xuân có chiều cao và chiều sâu tận cùng trong ánh trăng soi. Một mùa xuân bát ngát trong tầm mắt của Bác.
Vượt ra khỏi khung cảnh Việt Bắc trở thành hình tượng đẹp đẽ của bầu trời tự do, của mùa xuân đất nước mà Bác cảm nhận thấy từ ánh trăng rằm trong những tháng ngày còn gian khổ. Có nghĩ đến điều ấy, ta mới càng thấy được phong thái ung dung và lạc quan cao đẹp của Bác.
Ẩn sau cảnh trăng xuân đó là hình ảnh của ngày mai tươi sáng đang đến gần. Ngày mai đó được bắt đầu bằng những kế hoạch và công việc rất cụ thể, rất thực tế của Đảng ta và của Bác:
Đêm trăng rằm vắng lặng, êm dịu như bức tranh thuỷ mặc, trở nên sống động và thơ mộng bởi có sự góp mặt của những con người bất tử, đang chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ở đó, có Chủ tịch Hồ Chí Minh – nhà thơ và người chiến sĩ cách mạng kiên cường đang “bàn bạc việc quân”.
Bài thơ kết lại bằng một câu ngân vang cao vút và đầy thi vị: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Đêm khuya không hề có bóng tối, ánh trăng toả sáng khắp cả không gian. Hình ảnh con thuyền trở thành một hình ảnh liên tưởng và lãng mạn tuyệt đẹp – con thuyền như chở đầy ánh trăng.
Đó là hình ảnh của con thuyền cách mạng đang chở đầy chiến thắng, chở đầy niềm tin, đang đi tới tương lai rực rỡ huy hoàng.
Dường như bài thơ nào của Bác cũng kết thúc bằng những câu thơ bất ngờ và tuyệt đẹp như thế. Từ vẻ đẹp của nghệ thuật, vẻ đẹp của thiên nhiên đã toát lên sức mạnh tinh thần mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng.
Ngoài Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, chúng tôi tặng bạn 👉 15 Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng
Chia sẻ bài Văn Mẫu Cảm Nghĩ Về Bài Rằm Tháng Giêng đặc sắc và đầy đủ ý.
Mỗi dòng sông, ngọn cỏ, nhành hoa, ánh trăng… gần gũi, mộc mạc đi vào thơ Hồ Chí Minh lại trở nên có hồn và ấm áp yêu thương. Đọc thơ Bác chúng ta yêu thiên nhiên, yêu con người và yêu những gì bình dị nhất.
Bài thơ Rằm tháng giêng ra đời trong một đêm trăng tháng Giêng, giữa khung cảnh trời mây hữu tình, nên thơ và trong không khí bàn việc quân căng thẳng. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra được chữ “tình” thật đầy, thật dạt dào qua từng câu thơ Người viết.
Rằm tháng giêng có tiếng Hán là Nguyên tiêu được Xuân Thuỷ dịch thành thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển. Có lẽ dịch giả Xuân Thuỷ đã khiến cho người đọc như đang ở trong khung cảnh lãng mạn giữa sông nước mênh mông tràn đầy ánh trăng đó.
Không phải là ánh trăng của những ngày thường mà là ánh trăng ngày rằm tháng giêng, ánh trăng giữa không gian cuộc chiến tranh đang ác liệt. Chỉ với 4 câu thơ lục bát, bằng nét bút tài tình Hồ CHí Minh đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh mùa xuân thật đẹp, thật trữ tình:
Đêm trăng rằm tháng giêng là đêm trăng thiêng liêng, đêm trăng đẹp nhất trong năm vì nó mang hơi thở và sức sống của mùa xuân tươi mới, ấm áp. Đọc câu thơ Bác, chúng ta như đang chìm đắm trong sắc xuân, khí xuân, vị xuân nồng nàn và tràn đầy sức sống nhất. Ánh trăng xuân “lồng lộng” mang vẻ đẹp hữu tình, lung linh, rực rỡ.
Với cách đảo từ láy “lồng lộng” trên trước đã nhấn mạnh vẻ đẹp rạng ngờ của đêm trăng rằm tháng giêng. Phải thật khéo, thật tinh tế Hồ Chí Minh mới có thể nhận ra vẻ đẹp mê hồn đó.
Một câu thơ làm toát lên được thần thái của mùa xuân, người đọc có cảm giác như mùa xuân và ánh trăng ngày xuân bao trùm lên nơi đây. Mùa xuân có sự nối tiếp từ đất đến nước và đến trời thật hữu tình. Đây là cách diễn tả từ gần đến xa rất có dụng ý của Hồ Chí Minh.
Ánh trăng đêm rằm tháng giêng như dát xuống mặt sông một màu sắc lung linh, mơ hồ. Mùa xuân toát lên qua câu thơ của Hồ Chí Minh tràn đầy sức sống mãnh liệt nhưng cũng không kém phần thi vị, nên thơ. Ở câu thơ này, đường nét của mùa xuân hiện nên thật rõ ràng, không còn mơ hồ nữa.
Thật vậy, thiên nhiên trong thơ Người luôn có thần thái, có linh hồn như vậy. Những cảnh vật gần gũi trong thơ Bác cũng khiến người ta phải ngỡ ngàng.
Cách điệp từ “xuân” trong câu thơ tiếng Hán của người dường như đã nhấn mạnh thêm vẻ đẹp thi vị của mùa xuân. Tuy dịch giả không dịch được sát ý tứ thơ của Người nhưng đã phần nào thổi vào đó linh hồn của mùa xuân.
Hai câu thơ đầu tiên không hề xuất hiện hình ảnh con người, nhưng chuyển tiếp đến câu thơ thứ ba, người đọc nhận ra có sự hiển hiện của những con người, hay nói đúng hơn là hình ảnh của Bác:
Ánh trăng ngày xuân dường như đá “tràn” vào khoang thuyền, nơi Bác đang “bàn việc”. Dịch giả đã dùng từ “trăng ngân đầy thuyền” đã diễn tả được thần thái và nên thơ của khung cảnh nơi đây. Ánh trăng trong thơ Bác như được đẩy đến đỉnh điểm, một mức mà có lẽ cái đẹp đã thoát tục.
Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu.
Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ. Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là người đang hoạt động cách mạng với trọng trách nặng nề.
Đọc hai câu thơ cuối, người đọc lắng mình để cảm nhận về hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại. Dù việc quân bận rộn nhưng lòng bác luôn tràn đầy lòng yêu thiên nhiên, yêu sông núi Việt Nam. Những vần thơ chữ Hán của người khiến chúng ta liên tưởng đến thơ Đường của Trung Quốc, ý tại ngôn ngoại.
Nguyên tiêu thực sự là áng thơ hay tuyệt bút về mùa về, về trăng xuân, về tình yêu nước và yêu thiên nhiên nồng nàn. Giọng thơ nhẹ nhàng, tứ thơ uyển chuyển đã mở ra trước mắt người đọc khung cảnh xuân nên thơ nhất.
Cùng với Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, gửi tặng bạn 💕 7 Mẫu Sơ Đồ Tư Duy Rằm Tháng Giêng 💕 đầy đủ nhất
Bài Văn Mẫu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Hay với những lời bình giảng ý nghĩa về giá trị mà bài thơ mang lại.
Nguyên tiêu nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: Nguyên tiêu, Báo tiệp, Thu dạ,… Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông năm 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương.
Trong không khi sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đoá hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thuỷ đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tu đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát.
Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời.
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng.
Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận.
Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu / Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu.
Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”,… mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!
Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước.
Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ Nguyên tiêu mang phong vị Đường thi.
Ba chữ đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến nhưng vần thơ hoa lệ:
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình.
Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Qua bài thơ Nguyên tiêu, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
Nguyên tiêu được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh…
Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đoá hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng.
Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp.
Nguyên tiêu là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận…
Ngoài Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, tại chúng tôi còn có Chùm 🦋 Thơ Thích Nhất Hạnh 🦋 hay và ý nghĩa!
Bài văn mẫu cảm xúc của em về bài thơ Rằm tháng giêng:
Trăng luôn là niềm cảm hứng bất tận của nhiều nhà thơ, thi sĩ, trăng mang lại vẻ đẹp từ thiên nhiên lung linh huyền ảo, ánh trăng trong bài thơ “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh người ta còn cảm nhận được cả chất “nghệ sĩ” của một thi nhân.
Bài thơ được Bác viết bằng thể thơ cổ, sử dụng trong thơ ca trung đại: thất ngôn tứ tuyệt. Về sau, bài thơ được dịch giả Xuân Thủy dịch sang thể thơ lục bát với tên gọi quen thuộc đó là “Rằm tháng giêng”:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.”
Bài thơ được sáng tác vào năm 1947, lúc này Bác đang bộn bề công việc, chiến trận đang diễn ra ác liệt, người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh phải vượt qua khắc nghiệt của thời đại, ngắm nhìn vầng trăng và đưa ra vần thơ tuyệt diệu:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Bức tranh đêm trăng đẹp được bác vẽ ra thật đẹp, lúc ấy đã về khuya, trời đã bắt đầu có những cơn gió nhẹ. Mặt trăng tròn, tỏa ánh sáng khắp nơi khiến nhân gian dòng sông trăng lấp lánh. Trăng soi màu trời, trăng soi tiếng hát, trăng soi cả những con người đang ngồi ngắm ánh trăng giữa đêm khuya với tâm trạng đầy những tâm sự. Bác sử dụng từ láy “lồng lộng” để nói về sắc thái ánh trăng đêm nay. Ánh trăng tỏa sáng như đang ấp ôm, xoa dịu những tâm hồn lo lắng nhạy cảm trước những quyết sách lớn đối với vận mệnh của đất nước.
Ánh trăng ngày xuân làm vạn vật cũng trở nên xuân. Sắc xuân từ ánh trăng chan hòa vào cảnh vật, vào thiên nhiên, vào cuộc sống:
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Các hình ảnh “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân”. Các hình ảnh trên của mùa xuân như đang soi chiếu vào lẫn nhau, tôn lên nhau làm rạng rỡ thêm cho vẻ đẹp mùa xuân. Điệp từ “xuân” lặp lại ba lần như khẳng định cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân trong đêm rằm. Không gian ấy được mở ra theo chiều cao, chiều sâu và cả chiều rộng khiên bức tranh đêm nguyên tiêu không chỉ bó hẹp mà lại mở ra đến vô cùng vô tận.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Vẻ đẹp thiên nhiên rực rỡ cũng không làm cho người chiến sĩ quên đi nhiệm vụ trọng đại đang gánh vác. Ánh trăng kia thấu cảm cho sự vất vả, lo toan của người thi nhân – chiến sĩ. Có lẽ chỉ cần như thế là đủ để thấy được tinh thần trách nhiệm và niềm mong muốn của Bác to lớn đến thế nào. Vầng trăng vẫn lặng lẽ dõi theo con người với tâm hồn cao đẹp đợi chờ lúc họ trở về:
“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Đã đến khuya vậy mà trăng vẫn tràn ngập khắp nơi, trăng như đang chờ, đồng hành, đồng cảm cùng thi nhân. Hình ảnh “trăng ngân đầy thuyền” rất đẹp và lạ, ánh trăng soi dòng nước hay là ánh trăng “rơi xuống mạn thuyền” theo thi nhân đi vào bàn bạc quân tình, chính sự.
Trăng gắn bó với người nghệ sĩ biết trân quý vẻ đẹp của trăng và chính người nghệ sĩ ấy cũng có một tâm hồn lãng mạn mới đủ sức nhìn thấy đêm trăng đồng hành, đồng cảm. Trong hoàn cảnh chiến tranh mà con người và thiên nhiên vẫn giao cảm, đồng hành và chia sẻ cùng nhau. Tác giả phải có tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên thì mới viết nên những vần thơ hay và lay động lòng người như vậy.
Bài thơ “Rằm tháng giêng” Bác đã vẽ ra bức tranh ngày xuân tuyệt đẹp và có nhiều điều trăn trở về vận mệnh ẩn sâu trong từng câu thơ. Bài thơ Rằm tháng giêng cũng cho thấy được phong thái ung dung, tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh của Bác, Bác phải có tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên thì mới viết nên những vần thơ hay và lay động lòng người như vậy.
Văn mẫu viết đoạn văn nêu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng:
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại, một danh nhân văn hoá thế giới và còn là một nhà thơ lớn, nhà thi sĩ yêu trăng. Bác đã để lại cho thơ văn Việt Nam rất nhiều tác phẩm trong đó có bài “Rằm tháng giêng”.
Rằm tháng Giêng được sáng tác năm 1948, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa là Nguyên tiêu:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm tháng Giêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.
Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm Nguyên tiêu. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vạn vật ăm ắp sức xuân: sông xuân, nước xuân và trời xuân nối tiếp, giao hòa, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Trên một chiếc thuyền thu nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng (yên ba thâm xứ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng luận bàn việc quân, việc nước. Công việc trọng đại đến chừng nào, nhất là trong hoàn cảnh buổi đầu kháng chiến đầy thiếu thốn, gian khổ. Tuy vậy, gian khổ không làm vơi đi cảm xúc, thi hứng trong lòng Bác. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Trăng tròn vành vạnh treo giữa trời (nguyệt chính viên) đang tỏa sáng. Cảnh sông nước trong đêm lại càng thêm thơ mộng. Dòng sông trở thành dòng sông trăng và con thuyền cũng dường như trở đầy ắp ánh trăng (trăng ngân đầy thuyền). Trước đêm trăng đẹp, tâm hồn Bác lâng lâng. Bác thả hồn hòa nhập với thiên nhiên mà Bác vốn coi là một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong lòng Bác dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi của Cách mạng, của kháng chiến. Hình ảnh con thuyền trở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình ảnh lãng mạn có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Phải có một phong thái ung dung tự tại và niềm lạc quan mãnh liệt vào tương lai thì nhà thơ mới sáng tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bài thơ Rằm tháng Giêng với âm hưởng khỏe khoắn, tươi vui đã đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng. Bài thơ là dẫn chứng tiêu biểu chứng minh Bác Hồ vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm.
Biểu Cảm Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Học Sinh Giỏi là những cảm nhận rất riêng của người đọc về bài thơ giàu ý nghĩa này.
Trong niềm hân hoan chiến thắng sau chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947, Hồ Chủ tịch đã viết nên bài thơ Nguyên tiêu, hay còn gọi là Rằm tháng giêng.
Bài thơ thể hiện không khí tươi vui chiến thắng cùng niềm hạnh phúc khi sắc xuân đang ngập tràn trên đất nước ta. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tâm trạng phấn khởi của Người cũng như tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết khi mùa xuân đang tới.
Hai câu thơ đầu của bài thơ đã nói vẽ lên khung cảnh thiên nhiên vô cùng đẹp:
Hồ Chủ Tịch được biết đến là một con người yêu thiên nhiên, luôn khao khát được hòa nhập với thiên nhiên và trong thơ của Người luôn xuất hiện hình ảnh vầng trăng. Trăng như là một người bạn tri ân, tri kỉ của Bác. Có lẽ vì vậy mà ta thấy hình ảnh trăng luôn xuất hiện với tần xuất dày đặc trong các bài thơ của Người.
Và trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy, khi đất nước thắng lợi thì hiển nhiên cũng không thể thiếu được vầng trăng. Trăng xuất hiện như để chia vui, để đồng hành cùng người chiến sĩ, người thi sĩ trong những chặng đường đã qua và sắp đến.
Hẳn mỗi chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh vầng trăng trong đêm khuya thanh tĩnh khi Người đang phải lo nghĩ cho đất nước:
Nếu như hình ảnh trăng khi ấy đẹp và tròn đầy, như thao thức cùng Người vì nỗi lo cho đất nước thì giờ đây khi chiến thắng trăng vẫn ở đó, hân hoan, chia vui cùng người. Không những vậy, trăng trong ngày rằm thì chắc chắn sẽ tròn hơn những ngày bình thường, và đẹp hơn trong mắt một người đang vui, đang hạnh phúc.
Câu thơ thứ hai là sự hòa quyện giữa dòng sông và bầu trời, hai chủ thể thiên nhiên tuy tách biệt nhau nhưng cùng chung màu sắc, một màu xanh của hòa bình, của chiến thắng hân hoan. Ta cảm nhận được thiên nhiên lúc này như cũng muốn chia vui cùng con người, và con người cũng đang hòa nhập vào thiên nhiên.
Đây không phải là một đêm trăng rằm bình thường, mà là một đêm lịch sử ghi dấu ấn chiến công của dân tộc ta. Sắc xuân của đất trời cũng chính là sức sống mạnh mẽ, tiềm tàng, mãnh liệt của đất nước.
Hai câu thơ cuối của bài thơ tiếp tục là hình ảnh vầng trăng nhưng được miêu tả sóng đôi với con thuyền:
Ta thấy được vầng trăng trong thơ của Bác xuất hiện thật đa dạng, từ những khi một mình, thảnh thơi cho đến lúc bận rộn bàn chuyện nước. Người đang cùng những người chiến sĩ khác bàn bạc về việc quân, để tiến đến bảo vệ Tổ Quốc. Đây quả là một hoàn cảnh đặc biệt nhất mà trăng từng được xuất hiện ở thơ của Bác.
Ánh trăng đêm khuya soi xuống dòng nước, đập vào mạn thuyền tạo nên một khung cảnh rất lãng mạn. Khung cảnh chính trị lại được đặt trong sự lãng mạn, rất tài tình và độc đáo.
Thông qua bài thơ ngắn với chỉ 4 câu thơ, ta cảm nhận vẻ đẹp tuyệt diệu của vầng trăng vào Ngày rằm tháng giêng – ngày chiến thắng lịch sử của dân tộc.
Bác Hồ không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp, thơ mộng mà còn gửi gắm vào đó niềm vui, cảm xúc của mình trong ngày vui trọng đại này. Ta thấy thêm kính yêu và trân trọng vị lãnh tụ của dân tộc!
Ngoài Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, xem nhiều hơn những bài thơ đặc sắc trong 🌹 Thơ Đỗ Trung Quân 🌹
Một đêm rằm tháng giêng, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa là Nguyên tiêu:
Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm tháng giêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.
Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước:
Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm rằm. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”. Vạn vật tràn đầy sức xuân: “sông xuân, nước xuân và trời xuân” nối tiếp, giao hòa, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ “xuân” được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui.
Trên một chiếc thuyền thu nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng (yên ba thâm xứ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng luận bàn việc quân, việc nước. Công việc trọng đại đến chừng nào, nhất là trong hoàn cảnh buổi đầu kháng chiến đầy thiếu thốn, gian khổ. Tuy vậy, gian khổ không làm vơi đi cảm xúc trong lòng Bác. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Ánh trăng tròn vành vạnh treo giữa trời (nguyệt chính viên) đang tỏa sáng. Cảnh sông nước trong đêm lại càng thêm thơ mộng. Dòng sông trở thành dòng sông trăng và con thuyền cũng dường như trở đầy ắp ánh trăng (trăng ngân đầy thuyền).
Trước đêm trăng đẹp, tâm hồn Bác lâng lâng. Tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên mà Bác vốn coi là một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong lòng Bác dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi của Cách mạng, của kháng chiến. Hình ảnh con thuyền trở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình ảnh lãng mạn có ya nghĩa tượng trưng sâu sắc. Phải có một phong thái ung dung tự tại với niềm lạc quan mãnh liệt vào tương lai thì nhà thơ mới sáng tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Bài thơ “Rằm tháng giêng” với âm hưởng khỏe khoắn, tươi vui đã đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng. Bài thơ là dẫn chứng tiêu biểu chứng minh Bác Hồ vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm.
Cảm Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Chọn Lọc cùng những lời phân tích các hình ảnh đặc sắc có trong bài thơ.
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Là người tiên phong dẫn lối cho đất nước ta bước ra khỏi tấm màn đen của đêm trường nô lệ. Đó là những điều người người nói đến khi nhắc về Hồ Chủ tịch.
Thế nhưng, bên cạnh đó, Người còn là một nhà thơ, một người nghệ sĩ đích thực với tâm hồn nhạy cảm và những tác phẩm giàu giá trị. Trong đó, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Rằm tháng giêng.
Đây là một tác phẩm thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt đường luật quen thuộc. Ngay cả cấu tứ bài thơ cũng không có gì quá mới khi hai câu thơ đầu dành để tả cảnh, hai câu thơ sau ngụ tình, tả người.
Nhưng bằng tài năng, bằng trái tim nhạy cảm nhà thơ đã vẽ nên những câu thơ với hình ảnh hấp dẫn, sống động, và những ý thơ dạt dào tình cảm, ý nghĩa.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp. Đó là vào một đêm của mùa xuân, khi mặt trăng tròn đầy viên mãn ngự trị trên trời cao. Ấy là lúc khắp đất trời sung sướng mà vẫy vùng trong bể trăng đầy ăm ắp. Cái thứ ánh sáng trắng ngọc trắng ngà ấy phủ lên những lớp vàng, bạc óng ánh.
Khiến cho đất trời như đẹp hơn, tình tứ hơn. Bởi vậy, mà sắc xuân, hương xuân cũng thấm đẫm hơn trên cảnh vật. Dòng sông, con nước, bầu trời không còn là nó của ngày hôm qua nữa. Mà khoác lên mình tấm áo mới, trở thành sông xuân, trời xuân. Hình ảnh thơ khiến người đọc lâng lâng trong cảm giác khi xuân chín nục, tỏa ngát thơm hương.
Bầu trời, dòng sông được mùa xuân thấm đượm, lồng vào nhau, dây dưa khó phân. Mà có lẽ cũng chẳng cần phân tách, nên chúng cứ thế mà đan vào nhau, tuy hai mà một. Cả bức tranh thiên nhiên trở nên rộng lớn và thoáng đãng khi cả đất trời ngự về trên dòng thơ.
Và từng hơi thở cũng vì thế mà nhẹ nhàng, mê say hơn, khi sắc xuân đương nồng thắm, sinh động mà luân chuyển, mà chảy âm ỉ trong lòng thơ.
Trong khung cảnh mê say ngây ngất ấy, hình ảnh con người hiện lên ẩn sau hình ảnh chiếc thuyền trôi giữa con sông. Điều đặc biệt là, những con người ấy đến nơi đây không phải để thưởng nguyệt hay đọc thơ mà là để làm việc:
Những con người trong chiếc thuyền đấy là những người chiến sĩ đang tập trung để bàn bạc việc quân sự, để bảo vệ tổ quốc. Tinh thần ấy, không chút nào bị tác động, bị lay chuyển, dù là cảnh sắc tươi đẹp ở bên ngoài thuyền.
Các chiến sĩ ấy bàn bạc việc quân miệt mài đến tận đêm khuya vẫn chẳng dừng lại. Đến tận quá nửa đêm, khi ánh trăng đã tắm đẫm cả con thuyền vẫn còn miệt mài suy nghĩ.
Hình ảnh ánh trăng trải đầy thuyền là một hình ảnh vô cùng thơ mộng. Ánh trăng như một người bạn, một người đồng chí luôn ở bên quan tâm, đồng hành cùng các chiến sĩ. Hình ảnh trăng – người chiến sĩ là cặp hình ảnh song hành quen thuộc trong các tác phẩm thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nó thể hiện sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên, luôn ở bên, sát cánh cùng nhau. Ngoài ra, bức tranh sáng rọi của ánh trăng, còn thể hiện một niềm tin vững chắc về tương lai tươi sáng ở phía trước của đất nước ta. Đó là một tương lai hạnh phúc, độc lập, bình yên, như khuôn trăng tròn đầy ở trên kia.
Bài thơ Rằm tháng giêng đã xây dựng nên một đêm trăng mùa xuân tươi đẹp, hấp dẫn. Cả bài thơ khắc họa nên bầu không gian rộng lớn, thoáng đãng, trong đó xuất hiện hình ảnh con người tuy nhỏ bé, nhưng khó để bỏ qua được.
Từ đó, thể hiện được tài năng, tâm thế của tác giả. Đó là một trái tim tràn đầy tình yêu thiên nhiên, nhưng vẫn không quên nhiệm vụ đối với tổ quốc. Thật không sai khi gọi Hồ Chí Minh là “nhà thơ chiến sĩ”.
Cùng với Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, chia sẻ cùng bạn 💔 Thơ Lưu Trọng Lư 💔
Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng Cực Ngắn với những lời bình cô đọng và súc tích nhất.
Bác Hồ vị lãnh tụ dân tộc con người giản dị và tài giỏi, bên cạnh đó Bác cũng là một thi sĩ với hồn thơ tài hoa. Bác để lại nhiều bài thơ giá trị cho nền thi ca nước nhà. “Rằm tháng Giêng” là một tác phẩm có giá trị và được nhiều người biết đến.
Bản dịch:
Câu đầu tiên đó là ánh trăng đêm chiếu tỏa bao la trong đêm xuân. Hình ảnh ánh trăng được dùng rất nhiều trong các bài thơ Bác, nếu để ý các bài thơ của Bác ánh trăng xuất hiện như người bạn tri kỷ.
Câu thơ tiếp:
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Từ “xuân” lặp lại tạo ra không gian tràn đầy sắc xuân. Sông, nước, ánh trăng khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp làm cho không gian ngày xuân thêm rực rỡ.
Giữa dòng bàn bạc việc quân.
Sau khi Bác miêu cảnh thiên nhiên tựa như người thi sĩ ngắm trăng. Tuy nhiên 2 câu thơ sau cho thấy nỗi lòng của Bác, lo lắng cho tương lai cách mạng, Bác bàn bạc việc quân ở trên thuyền. Bác như giao hòa với thiên nhiên tuyệt sắc.
Người luôn hết lòng vì nước vì dân. Công việc bộn bề nhưng Bác vẫn không quên thưởng thức thiên nhiên, thể hiện sự lạc quan của người cách mạng trong hoàn cảnh chiến tranh.
Câu thơ cuối:
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Con thuyền là ẩn dụ về thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng báo hiệu cho ngày chiến thắng không còn xa nữa. Câu thơ thể hiện được sự lạc quan, niềm tin về ngày chiến thắng của cách mạng.
Bài thơ Rằm tháng Giêng là một bài thơ hay của Bác, bài thơ miêu tả không gian thiên nhiên tuyệt đẹp trong mùa xuân. Bác và chiến sĩ bàn bạc việc quân ngay trên thuyền. Đồng thời thể hiện sự lạc quan vào tương lai của cách mạng.
Cùng với Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, chúng tôi tặng bạn tuyển tập 💧 Thơ Thế Lữ 💧 giàu cảm xúc!
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn là một nhà thơ nhà văn lớn. Một trong những tác phẩm Người để lại có thể kể đến “Rằm tháng giêng”. Bài thơ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc về phong cách sáng tác của Hồ Chủ tịch.
Đầu năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp kết thúc khi đêm cũng đã về khuya, ánh trăng đêm rằm tròn đầy, sáng tỏ. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này:
Bài thơ mở đầu với việc Bác đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Và rồi “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Thơ ca xưa thì những hình ảnh như “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật. Điều đó đã cho thấy nét độc đáo trong thơ của Bác.
Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng – họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Đặc biệt ở đây, công việc của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ. Công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Hình ảnh ở cuối bài thơ thật đặc sắc: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Ta có thể tưởng tượng ra hình ảnh ánh trăng tròn đây đến độ lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Những câu thơ đã giúp người đọc hiểu được một tâm hồn lạc quan, mơ mộng và yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.
Chủ đề ánh trăng luôn được các thi sĩ khai thác sử dụng trong tác phẩm của mình, Bác Hồ cũng nằm trong số đó, bài thơ Rằm tháng giêng hay còn gọi là Nguyên tiêu là một tác phẩm giá trị mang tính lịch sử của nước nhà.
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Đêm trăng rằm thật đẹp, ánh trăng chiếu rọi khắp núi rừng, có cảm tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời, vạn vật như tràn đầy sức sống của mùa xuân, điệp từ xuân trong bài đoạn thơ lặp lại nhiều lần với mục đích diễn tả cả trời đất và con người đều vui khi xuân về.
“Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Công việc bàn bạc việc quân tuy vất vả khó khăn là vậy nhưng cảm xúc, cảm hứng trong lòng thi sĩ vẫn đong đầy, buổi họp kéo dài và kết thúc cũng là lúc trăng rằm lên cao tròn vành vạnh. Cảnh sông cảnh nước thơ mộng. Con thuyền chờ Bác đi trong đêm tưởng tưởng như chở đầy ắp ánh trăng. Tâm trạng Bác lúc này cũng vui theo đất trời và dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi Cách mạng. Hình ảnh con thuyền chở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông là một hình ảnh lãng mạn thể hiện sự lạc quan, vui vẻ tạo ra hình tượng nghệ thuật rất độc đáo.
Với tâm hồn của người thi sĩ yêu và gắn bó với thiên nhiên, kết hợp với sự cảm nhận tinh tế, ngòi bút tả cảnh mang lại bức tranh thiên nhiên sống động đầy màu sắc. Bác Hồ khắc họa vẻ đẹp hình ảnh mùa xuân đang về đồng thời thể hiện sự lạc quan và phong thái ung dung đỉnh đạt.
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc nhưng bên cạnh đó Người cũng là một hồn thơ tài hoa. Với nhiều tác phẩm giá trị để lại, Bác đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền thi ca nước nhà. “Rằm tháng Giêng” là một tác phẩm ghi lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử nước nhà.
Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, bước sang hè 1948 quân ta lại liên tục thắng lớn trước thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh đó bài thơ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như truyền thêm cho quân và dân ta tình yêu thương vô bờ đối với quê hương đất nước, đồng thời cho ta thấy được tấm lòng luôn canh cánh vì nước vì dân của Bác Hồ.
Mở đầu bài thơ là một không gian bao la rộng lớn:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,”
Ánh trăng đêm xuân an lành lồng lộng. Từ “lồng lộng” được đảo lên trên cho ta thấy cái rộng lớn bao la của cảnh sắc đêm xuân. Hình ảnh ánh trăng thường được sử dụng trong thơ Bác như một người bạn tri âm tri kỉ. Ở đây, ngay trong đêm Rằm vẫn luôn dõi theo, bầu bạn với Bác.
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân;”
Câu thơ cho ta thấy cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp. Hai từ “xuân” lặp lại nối tiếp nhau mở ra cho ta một không gian rợn ngợp tràn đầy sắc xuân, tràn đầy sức sống. Sông, nước, ánh trăng như nối liền nhau, giao hòa với nhau giữa vẻ đẹp của đất trời.
Câu thơ “Giữa dòng bàn bạc việc quân” cho thấy tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn đau đáu tấm lòng vì nước vì dân. Công việc bộn bề nhưng Bác vẫn luôn yêu thiên nhiên cảnh vật. Điều đó cho ta thấy tư thế ung dung lạc quan yêu đời của người chiến sĩ cách mạng.
Câu thơ cuối cùng: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” gợi ra hình ảnh con thuyền là ẩn dụ sâu sắc về thắng lợi của cách mạng. Con thuyền cách mạng rực rỡ ánh trăng ngân báo hiệu cho ngày chiến thắng không còn cách xa. Câu thơ thể hiện một niềm lạc quan, niềm tin vô cùng với cách mạng.
Bài thơ “Rằm tháng Giêng” là một bài thơ độc đáo của Bác Hồ. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vô cùng của Bác đồng thời cũng nói lên tinh thần lạc quan giữa hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt.
❤️️ Không chỉ có Bài Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng, gợi ý thêm cho bạn nhiều nội dung thú vị và hữu ích khác tại chúng tôi ❤️️
Năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trong giai đoạn khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị người chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến không khỏi âu lo, trằn trọc. Nỗi lòng ấy của Người đã được thể hiện tinh tế trong bài thơ Cảnh khuya mà chúng ta từng đọc.
Bước sang năm 1948, tình hình đất nước và sự nghiệp kháng chiến có nhiều chuyển biến khả quan. Do đó vào đêm rằm tháng giêng (âm lịch) năm đó, sau một cuộc họp bàn việc quốc kế quân cờ, Bác đã hứng khởi sáng tác bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng).
Tác phẩm thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, nguyên văn bằng chữ Hán. Nếu chúng ta dịch nghĩa của bản phiên âm thì bài thơ ấy có thể như sau:
Bài thơ đã khắc họa cảnh thiên nhiên trong đêm trăng rằm. Những hình ảnh, từ ngữ, âm điệu, vần điệu của bài thơ cũng vậy. Đọc bài thơ, lắng nghe âm điệu và thoáng qua các chất liệu tạo vật như “trăng tròn, sông xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng, nửa đêm, đầy thuyền…”, ta có cảm giác thơ của Bác Hồ giống thơ của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ bạc (Đêm ngủ ở bến Phong Kiều). Kết bài Phong Kiều dạ bạc, Trương Kế viết: “Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”.
Hồ Chí Minh viết: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”. Bài thơ Nguyên tiêu tuy sử dụng nhiều chất liệu cổ thi, nhưng vẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Hồ Chí Minh, mang vẻ đẹp, sức sống và tinh thần của thời đại mới. Bác làm thơ Đường nhưng không máy móc mà đầy sáng tạo. Mỗi bài thơ của Người thể hiện tài năng và tâm hồn, trí tuệ của người chiến sĩ cách mạng hài hoà phong cách người nghệ sĩ ngày nay.
Hai câu thơ đầu vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đêm rằm tháng giêng sáng quá, đẹp quá. Bầu trời cao rộng, thoáng đãng. Trăng tròn đầy. Cả không gian tràn ngập sức sống, trải mênh mang tường như không có giới hạn. Tất cả đều tươi trẻ, dào dạt cảnh xuân. Dòng sông mùa xuân, nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân. Trong nguyên tác chữ Hán, tác giả dùng điệp từ “xuân” ba lần liền mạch, nối nhau, ngân nga như một dòng nhạc xanh êm dịu. Câu thơ có bảy tiếng thì năm tiếng có thanh không: Xuân giang, xuân…, xuân thiên mang âm hưởng bay bổng, gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm sao.
Nhà thơ Hồ Chí Minh vẫn dùng ngòi bút chấm phá chọn nét cảnh tiêu biểu, ấn tượng, hài hòa thống nhất với nhau, đã tạo ra một bức tranh đêm rằm tháng giêng ở chiến khu Việt Bắc năm 1948, vừa mang vẻ đẹp của tạo vật vừa ẩn dụ cho tình hình kháng chiến đầy triển vọng lúc bấy giờ. Đằng sau bức tranh ấy, là một cái nhìn, một cảm hứng, một phong thái bình tĩnh, ung dung, thanh thản của người nghệ sĩ – chiến sĩ.
Đến hai câu kết của bài thơ thì chất chiến sĩ – nghệ sĩ càng hiện rõ. Một cuộc họp bàn việc quốc tế quân cơ đã diễn ra trong đêm rằm tháng giêng ấy. Cuộc họp ấy đã bàn bạc, nhận định và quyết định những điều gì, chúng ta không biết. Song điều chắc chắn chúng ta có thể tin được là cuộc họp ấy đã thành công rực rỡ, đem lại niềm vui, niềm tin cho mọi người. Do đó, lúc tan họp, mọi người ra về giữa đêm khuya, thấy trời như sáng ra, trăng như tròn hơn, ánh trăng ăm ắp đầy cả khoang thuyền: “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).
Bài thơ “Nguyên tiêu” thể hiện rõ tinh thần chủ động, phong thái ung dung, lạc quan, niềm tin vững chắc ở sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ, người chiến sĩ – người nghệ sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ vừa mang âm điệu cổ điển vừa thể hiện tinh thần thời đại, khỏe khoắn, trẻ trung.
Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người còn được biết đến với tư cách là một nhà văn, nhà thơ. Một trong những tác phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc là bài thơ Rằm tháng giêng:
Bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng Việt Bắc được Bác khắc họa thật sinh động. Trăng vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ Bác. Nhưng ánh trăng trong “Rằm tháng giêng” lại mang một nét độc đáo riêng. Bởi đó là ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng – trăng đang ở độ tròn đầy, sáng rõ nhất. Không gian núi rừng rộng lớn ngập tràn ánh trăng. Và “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. “Xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra sắc xuân rực rỡ khắp cả đất trời. Cùng với từ “tiếp” khiến cho người đọc hình dung ra bầu trời và mặt đất đang giao hòa.
Trong bức tranh thiên nhiên đó, con người cũng xuất hiện với một công việc quan trọng. Giữa màn sương khói mờ ảo, Bác và các chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Đây là một việc đòi hỏi sự kín đáo, bí mật nên chỉ có thể diễn ra vào ban đêm, tại nơi vắng vẻ. Thế mới thấy được rằng công việc cách mạng khó khăn, vất vả đến nhường nào. Dù vậy thì tâm hồn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đầy lạc quan. Hình ảnh ở cuối bài thơ thật đặc sắc: “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Hình ảnh gợi cho người đọc tưởng tượng về khung cảnh ánh trăng tròn đây đến độ lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Chỉ sau khi bàn bạc việc nước xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Như vậy, chúng ta có thể thấy được một tâm hồn thi sĩ cao đẹp của Bác Hồ.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét “thơ Bác đầy trăng”, quả đúng là như vậy. Trăng trong rừng, trăng chốn tù lao, trăng ngoài song cửa, trăng báo tin thắng trận,…vầng trăng như một người bạn tri âm tri kỉ có mặt trong mọi chặng đường Bác đi, sẻ chia bao niềm vui, nỗi buồn cùng Người. Và điều đó cũng được thể hiện qua bài thơ “Rằm tháng giêng”.
Tại chiến khu Việt Bắc năm 1947, chiến dịch Việt Bắc của ta thành công rực rỡ đập tan ý đồ xâm lược của địch. Trong niềm hân hoan, hạnh phúc ngập tràn của quân và dân vầng trăng cũng có mặt để cổ vũ tinh thần, san sẻ niềm vui. Bài thơ được xem là một trong những bài thơ hay nhất viết về vầng trăng của Bác, không chỉ bởi hoàn cảnh ra đời đặc biệt của nó, mà còn bởi vẻ đẹp lung linh của dòng sông trăng khiến lòng người thổn thức.
Hai câu thơ đầu, dưới bàn tay tinh tế, tài hoa cùng những nét chấm phá tuyệt vời của thi sĩ, bức tranh đêm trăng rằm trên sông nước hiện lên tuyệt đẹp:
Giữa bầu trời cao rộng, vầng trăng đêm rằm sáng rực nổi bật trên lên trời. Vầng trăng dát vàng chiếu xuống mặt đất, chiếu qua từng nhành cây, ngọn cỏ khiến cho cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Từ trước đến nay, trăng đi vào trong thơ vốn đã đẹp lãng mạn giờ đây ánh trăng ấy được lọt qua khe mắt của thi nhân đúng lúc tròn nhất nên càng thi vị hơn. Khung cảnh núi rừng còn như ngập trong cảnh sắc mùa xuân, sông xuân, nước xuân, trời xuân như hòa vào làm một, không gian bát ngát, cao rộng ngợp trong vẻ đẹp tươi mát của mùa xuân. Từ “xuân” được nhắc lại ba lần trong một câu thơ đem đến không khí vui tươi, lan tràn sức sống cho không gian trăng rằm.
Hai câu thơ sau, hình ảnh con người được điểm tô trong bức tranh trăng rằm ngày xuân. Con người đã có những phút giao hòa tuyệt đẹp cùng thiên nhiên.
Trên một chiếc thuyền nhỏ trôi lênh đênh giữa dòng sông, Bác đang cùng với những người chiến sĩ của mình bàn bạc việc nước. Hình ảnh “Yên ba thâm xứ” gợi lên không gian sông nước mênh mang, sâu thẳm mịt mù khói sóng. Từ ngàn xưa, khói sóng thường là không gian gợi nỗi sầu ly hương, khoảnh khắc nhớ nhà của những tao nhân mặc khách. Thế nhưng trong câu thơ này “yên ba thâm sứ” được kết hợp với “đàm quân sự” đã hoàn toàn xóa đi nội dung của ý thơ xưa. Họp bàn quân sự là chuyện hệ trọng đòi hỏi sự kín đáo, bí mật, vì thế phải chọn nơi không gian sâu kín của dòng sông là nơi gặp gỡ. Đến đêm khuya, sau khi họp bàn việc công trở về dòng sông nước bỗng hóa thành dòng sông trăng tuyệt đẹp, trên con thuyền những người chiến sĩ cách mạng đang đi cũng chở đầy ánh trăng. Không gian trở nên rực rỡ, lộng lẫy bất ngờ. Phải chăng việc quân đã được giải quyết, lòng người vui tươi, thoải mái cho nên niềm vui được trang trải ra cùng cảnh vật. Đêm trăng rằm mùa xuân đã đẹp nay càng trở nên đẹp hơn. Giữa bộn bề công việc với bao lo toan nhưng Người vẫn không nỡ từ chối cảnh thiên nhiên đẹp. Qua đây đã cho thấy tâm thế ung dung, lạc quan, yêu đời của Bác, dù cuộc chiến của ta còn dài, chặng đường phía trước còn nhiều gian nan nhưng Người vẫn luôn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của dân tộc. Bài thơ chính là cách thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết hòa trong tình yêu nước sâu nặng của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
“Rằm tháng giêng” là bài thơ tứ tuyệt cô động nhưng đã thể hiện được nhiều nội dung ý nghĩa đặc sắc. Qua bức tranh trăng trên sông nước mùa xuân đẹp thi vị lãng mạn, tâm hồn của người thi sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh cũng được thể hiện sâu sắc. Đây chỉ là một trong vô vàn bài thơ viết về ánh trăng của Bác, mỗi bài thơ lại là một nét vẽ đặc sắc riêng, thế nhưng vầng trăng trong bài thơ “rằm tháng giêng” mãi là ghi dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả mọi thời đại.
Cảm Nhận Về Bài Thơ Quê Hương ❤️️15+ Bài Văn Hay Nhất
Cảm Nhận Về Bài Thơ Quê Hương của Tế Hanh ❤️️ 15+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Bài Viết Cảm Nhận Văn Học Đặc Sắc Dành Cho Bạn Đọc Của SCR.VN.
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Quê Hương Tế Hanh sẽ giúp các em học sinh dễ dàng triển khai bài viết theo một bố cục cụ thể và những luận điểm rõ ràng. Tham khảo dàn ý chi tiết cảm nhận về bài thơ Quê hương như sau:
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả – tác phẩm
Sơ lược về đề tài “quê hương”.
Sơ lược về Tế Hanh và bài thơ Quê hương của ông.
II. Thân bài: Cảm nhận về bài thơ Quê hương.
a. 2 câu thơ đầu:
Giới thiệu khái quát về làng quê với chất giọng yêu thương, nhẹ nhàng, vẽ nên dáng hình của quê hương thông qua vị trí địa lý, khoảng cách với biển cả,…
Cách gọi giản dị mà đầy thương yêu, giới thiệu về một miền quê ven biển với nghề chính là chài lưới
Cách giới thiệu tự nhiên nhưng cụ thể về một làng chài ven biển
b. 6 câu thơ thiếp “Khi trời trong…thâu góp gió”:
Cảnh ra khơi diễn ra trong khung cảnh thơ mộng, tuyệt vời: Trời trong, nắng nhẹ, sớm mai hồng.
Ngư dân trai tráng với sự khỏe mạnh, tinh thần hăng say.
Chiếc thuyền lướt nhẹ ra khơi, dường như không chịu bất kỳ cản trở nào, hùng dũng, tràn đầy sinh lực tựa như con tuấn mã đã kinh qua hàng trăm trận chiến.
Con thuyền trong thơ của Tế Hanh luôn nắm giữ vị thế chủ động, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thuần thục và can trường trước sóng biển.
Trước biển lớn, sóng nước mênh mông thế nhưng chiếc thuyền nhỏ bé lại nổi lên với khí thế mạnh mẽ, sôi sục lòng nhiệt huyết, dường như biển cả đã trở thành bức nền xanh làm bật lên vẻ đẹp hiên ngang của chiếc thuyền đánh cá.
So sánh “cánh buồm” với “mảnh hồn làng”, phác họa ra mảnh tình của quê hương, luôn theo sát từng bước đi của ngư dân, gắn bó thân thiết.
Nhân hóa hình ảnh cánh buồm với từ “rướn” và “thâu” gợi cảm giác cánh buồm cũng đăng hăng say tham gia vào lao động, đoàn kết với ngư dân xông pha biển lớn.
c. 4 câu thơ tiếp “Ngày hôm sau…thân bạc trắng”:
Niềm hân hoan, vui mừng của dân làng chài khi đón thuyền về, tạo cảm giác ấm no, thanh bình miền biển.
Sự biết ơn của Tế Hanh đối với biển cả quê hương, với mẹ thiên nhiên đã nuôi sống người dân quê hương bằng nguồn cá dồi dào.
d. Bốn câu thơ cuối:
Vẻ đẹp của người ngư dân, làn da ngăm rám nắng khỏe khoắn và nhiều vất vả, thân mình mang đậm hơi thở xa xăm của biển cả, con người và biển cả dường như hòa quyện vào với nhau.
Ánh mắt thông cảm, yêu thương của Tế Hanh với sự vật, với con thuyền của quê hương, ông cảm nhận được cả sự mỏi mệt, vẻ trầm tĩnh của nó như đang tâm sự với biển cả. Tâm hồn tinh tế hòa quyện giữa các giác quan khiến nhà thơ cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương.
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của cá nhân về bài thơ “Quê hương”.
Trọn Bộ Bài Thơ 🌻 Quê Hương Của Tế Hanh 🌻
Quê hương trong xa cách là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời Tế Hanh. Cái làng chài nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng nước bao vây cách biển nửa ngày sông đã nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tế Hanh, đã trở thành nỗi nhớ da diết để ông viết nên những vần thơ thiết tha, lai láng. Trong dòng cảm xúc ấy, Quê hương là thành công khởi đầu rực rỡ.
Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu thiết tha, trong Sáng, đầy thơ mộng của mình. Nổi bật lên trong bài thơ là cảnh ra khơi đánh cá của trai làng trong một sớm mai đẹp như mơ:
Giữa trời nước bao la nổi bật hình ảnh con thuyền hiên ngang, hăng hái, đầy sinh lực dưới bàn tay điều khiển thành thạo của dân trai tráng đang nhẹ lướt trên sóng qua hình ảnh so sánh như con tuấn mã. Đằng các từ ngữ sinh động, nhà thơ đã khắc hoạ tư thế kiêu hãnh chinh phục sông dài, biển rộng của người làng chài.
Lời thơ như băng băng về phía trước, như rướn lên cao bao la cùng với con thuyền, với cánh buồm Tế Hanh đã cảm nhận cuộc sống lao động của làng quê bằng cả tâm hồn thiết tha gắn bó nên mới liên tưởng Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng. Bao nhiêu trìu mến thiêng liêng, bao nhiêu hi vọng mưu sinh của người lao động được gửi gắm ở đấy.
Cảnh đón thuyền đánh cá trở về ồn ào, tấp nập cũng được miêu tả với một tình yêu tha thiết:
Ở đoạn trước, khi tả cảnh ra đi mạnh mẽ vượt trường giang của đoàn thuyền, hơi thở băng băng, phơi phới. Đến đoạn này, âm điệu thơ thư thái và dần lắng lại theo niềm vui nó ấm, bình yên của dân làng. Chính từ đây, xuất hiện những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của Quê hương:
Chỉ ai sinh ra và lớn lên ở nơi sông nước mới viết được những câu thơ như thế. Tế Hanh xây dựng tượng đài người dân chài giữa đất trời lộng gió với hình khối, màu sắc và cả hương vị không thể lẫn: bức tượng đài nồng thở vị xa xăm – vị muối mặn mòi của biển khơi, của những chân trời tít tắp mà họ thường chinh phục. Chất muối mặn mòi ấy ngấm vào thân hình người dân chài quê hương, thấm dần trong thớ vỏ chiếc thuyền hay đã ngấm sâu vào làn da thớ thịt, vào tâm hồn thơ Tế Hanh để thành niềm cảm xúc bâng khuâng, kì diệu?
Một tâm hồn như thế khi nhớ nhung tất chẳng thể nhàn nhạt, bình thường. Nỗi nhớ quê hương trong đoạn kết đã đọng thành những kỉ niệm ám ảnh, vẫy gọi. Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá – câu thơ cuối cùng cho ta rõ thêm tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh.
Quê hương của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ mình. Bài thơ đã góp phần bồi đắp cho mỗi người đọc chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết.
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Quê Hương ☔ Những Bài Văn Mẫu Hay
Luyện tập viết bài văn nêu cảm nhận về bài thơ Quê Hương sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những ý tưởng làm bài phong phú hơn.
Quê hương – hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương, dạt dào! Trong mỗi con người chúng ta ai cũng ẩn sâu cho mình hình ảnh nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi luôn chan chứa tình yêu thương. Có lẽ cảm xúc về quê hương là những cảm xúc cao đẹp nhất. Và thoáng chút bâng khuâng khi chiều nay tiết văn cô giáo vừa giảng bài “Quê hương” của Tế Hanh – quê hương của tác giả thật đẹp, thật bình dị!
Tế Hanh sinh ra ở một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, cả tuổi thơ của ông gắn liền với nắng gió, với hơi thở của biển. Có lẽ hồn biển đã thấm sâu vào tim để rồi làm nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Tế Hanh viết nên những vần thơ về quê hương, về những con người miền biển chân chất, thật thà.
Hai câu mở đầu như gợi lên hình ảnh một làng chài nhỏ nằm ngay sát biển. Họ mưu sinh bằng nghề đánh bắt, bằng những chuyến tàu đi về hằng ngày trên biển. Cụm từ “Làng tôi” như một tiếng gọi thân thương trìu mến của một người con xa quê bỗng cất lên nỗi nhớ da diết. Câu thơ ngắn gọn nhưng gợi tả được bức tranh về một làng chài ven biển bình dị, thân quen…
Ở nơi đó có những con người sinh ra từ biển, lớn lên từ biển. Mỗi sớm mai thức dậy, khi bầu trời trong xanh, biển im ắng họ lại “bơi thuyền đi đánh cá”. Những chàng trai làm nghề của biển họ mạnh mẽ, họ khỏe khoắn với “làn da ngăm rám nắng” ngày ngày đối mặt với sóng to gió lớn, lênh đênh hàng tháng liền trên biển mênh mông:
“Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”
Họ trở về từ biển, họ mang hơi thở của biển. “Vị xa xăm” – không chỉ là vị của biển mà còn là hương vị của những vùng đất họ đã đi qua, là vị mặn của những giọt mồ hôi, của tình yêu quê hương. Người ta nói, dân biển họ đậm tình đậm nghĩa lắm, đậm như chính nơi biển lớn họ sinh ra. Dù đi đâu lòng họ vẫn hướng về quê hương, về nơi xóm chài nghèo e ấp khi bão về…
Cuộc sống của những con người vùng biển quanh năm gắn liền với những con thuyền mộc mạc. Có những gia đình gần như sinh sống trên không gian nhỏ bé của thuyền. Chiếc thuyền là nơi sinh hoạt, là mưu sinh, là sự sống của họ. Trong kí ức của Tế Hanh những chiếc thuyền như chính linh hồn làng, con thuyền trong thơ ông hiện lên như một dũng sĩ xông pha nơi chiến trường:
Tác giả đã so sánh hình ảnh chiếc thuyền như một con ngựa đẹp, khỏe và phi nhanh. Động từ mạnh được sử dụng liên tục như càng tô đậm hơn sự dũng mãnh của chiếc thuyền chài “phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang” – ta tưởng như con thuyền rẽ mọi con sóng, vượt mọi ngọn gió, oai hùng tiến về phía trước không một chút nao núng. Con thuyền ấy sở dĩ hiên ngang như vậy bởi được bao bọc bởi cánh buồm trắng – cánh buồm như mang theo cả hồn của làng chài nghèo, của những người thân đang ngóng trông họ nơi quê nhà.
Một cánh buồm đơn sơ được Tế Hanh thổi hồn nay bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Mỗi ngày trên biển, nhìn cánh buồm tung bay trong gió những người dân chài như thấy thấp thoáng hình bóng quê hương, thấp thoáng bóng người vợ, người mẹ già ngày đêm đứng chờ ở bãi biển… Hàng tháng trời ở biển, đâu chỉ con người biết mỏi biết mệt, những chiếc thuyền cũng thấm mệt, lui dần về bến, lim dim ngủ:
Tế Hanh đã tinh tế khi sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong hai câu thơ trên. Nếu từ “nghe” là từ chỉ hoạt động của thính giác thì “thấm” là cảm nhận của xúc giác. Bằng nghệ thuật ấy, tác giả đã vẽ nên hình ảnh chiếc thuyền trở về nằm im mệt mỏi nhưng dường như từng “thớ vỏ” bên trong. Con thuyền nằm đó, im lặng nhưng vẫn dạt dào nguồn sống. Ta dường như thấy được nhà thơ đang hóa thân vào hình ảnh con thuyền để bày tỏ nỗi lòng, để lặng ngắm không khí vui tươi ngày trở về…
Đối với những con người làm nghề đi biển, họ mong lắm ngày được trở về. Những người mẹ, người vợ càng háo hức mong đợi nhiều hơn. Ấy thế nên khi ghe vừa đến bến cả mỗi vùng xôn xao náo nhiệt. “Ồn ào” , “tấp nập” – những từ láy gợi tả khung cảnh đông vui, náo nức được nhà thơ sử dụng như càng làm bừng lên không khí vui mừng nơi xóm nghèo.
Họ nô nức đón ghe về, họ vui mừng khi “cá đầy ghe”. Những con người chân chất ấy họ sung sướng nhưng vẫn không quên gửi lời cảm ơn chân thành đến thần linh – “nhờ ơn trời biển lặng”… đã mang những con thuyền chở người thân của họ trở về trong bình yên. Tất cả những hình ảnh trên chỉ còn lại trong kí ức của tác giả bởi ông đang ở nơi xa, đang từng ngày mong nhớ quê hương nơi đất khách:
Mọi thứ dường như đã rất quen thuộc, dường như đã ăn sâu nơi tiềm thức của nhà thơ. Bài thơ da diết, sâu lắng tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của những người làng chài sao mà chân thật, sống sộng đến thế? Phải chăng đây chính là nỗi niềm từ chính tâm tư của những con người xa quê… Để rồi Tế Hanh đã phải thốt lên:
“Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Vâng, dù đi đâu, đi thật nhiều nơi nhưng cái hương vị quê nhà, mùi của đất, của biển, của tình người vẫn mãi thấm đượm trong tác giả. Là cả một ước mong ngày trở về…Vần thơ bình dị mà gợi cảm, hình ảnh đơn giản mà sâu sắc, giọng văn nghẹn ngào cảm xúc – “Quê hương” như môt khúc nhạc nhớ thương quê hương trong sáng, da diết của nhà thơ! Quê hương – hai tiếng ấy sao mà thân thương! Mỗi lần thốt lên hay nghĩ về đều rất thiêng liêng:
Ngoài ra, tại chúng tôi còn có Phân Tích Bài Thơ 🌺 Nhớ Con Sông Quê Hương Tế Hanh 🌺 Văn Mẫu Hay
Tế Hanh là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam với những vẫn thơ giàu hình ảnh, ngôn ngữ tự nhiên, giản dị và luôn chất chứa tình yêu quê hương tha thiết. Bài thơ “Quê hương” được sáng tác năm 1939 khi nhà thơ còn đang học ở Huế là một sáng tác tiêu biểu của ông. Đọc bài thơ, người đọc sẽ cảm nhận được một cách rõ nét tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ.
Trước hết, tình yêu quê hương của tác giả được thể hiện gián tiếp qua cách nhà thơ giới thiệu về quê hương của mình trong hai câu thơ mở đầu bài thơ.
Với hai câu thơ tám chữ ngắn gọn nhưng có thể thấy tác giả đã giới thiệu một cách toàn diện, khái quát và đầy đủ về quê hương của chính mình. “Làng tôi” là cách gọi đầy thiết tha, trìu mến, chan chứa bao tình cảm của nhà thơ với quê hương của mình. Để rồi, từ đó, nhà thơ vẽ ra những đặc điểm, vị trí của quê hương mình. Cụm từ “vốn làm nghề chài lưới” đã cho thấy quê hương của nhà thơ là một làng nghề đánh cá truyền thống từ lâu đời.
Cùng với đó, vị trí của làng chính là ở gần biển, chỉ “cách biển nửa ngày sông”, có thể dễ dàng nhận thấy đây chính là cách tính không gian quen thuộc của người dân miền biển – lấy thời gian để đo không gian. Như vậy có thể thấy nhà thơ đã giới thiệu một cách ngắn gọn, tự nhiên, giản dị về quê hương của mình. Ẩn sau lời giới thiệu ấy chính là tình cảm thiết tha, đằm thắm và nỗi niềm yêu thương, tự hào về quê hương mình của nhà thơ Tế Hanh.
Không dừng lại ở đó, tình yêu quê hương của tác giả trong bài thơ còn được thể hiện qua nỗi nhớ, cách miêu tả của tác giả về khung cảnh sinh hoạt, lao động của những người dân làng chài nơi mảnh đất quê hương. Khung cảnh đầu tiên hiện lên trong nỗi niềm của tác giả đó chính là khung cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào mỗi buổi sáng.
Hai câu thơ đã mở ra khoảng không gian và thời gian để những chiếc thuyền của người dân làng chài ra khơi đánh cá. Đó là một buổi sớm mai với ánh mặt trời ấm áp cùng những ánh nắng hồng tỏa sáng muôn nơi, khoảng thời gian ấy đã gợi ra biết bao niềm tin, hi vọng cho người dân nơi đây. Và trong khoảng thời gian ấy, trong không gian của “trời xanh’, của “gió nhẹ” những người dân nơi đây đã giong buồm ra khơi đánh cá.
Hình ảnh những con thuyền nối đuôi nhau ra khơi được tác giả khắc họa thật đẹp, thật dũng mãnh, khỏe khoắn và tràn đầy tự tin qua hình ảnh so sánh độc đáo “hăng như con tuấn mã” cùng việc sử dụng hàng loạt động từ mạnh như “phăng”, “vượt”. Và không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh ra khơi của những người dân làng chài còn được thể hiện ở hình ảnh cánh buồm trong những câu thơ tiếp theo.
Hình ảnh so sánh độc đáo cùng phép tu từ ẩn dụ làm hiện lên hình ảnh của cánh buồm trắng, mang linh hồn, sự sống, sức mạnh của cả xóm làng. Có thể thấy đây là một hình ảnh thơ lãng mạn, qua đó thể hiện sự tự hào, niềm tin và tình yêu quê hương của tác giả. Trong nỗi nhớ, tình yêu quê hương, nhà thơ Tế Hanh còn khéo léo miêu tả lại khung cảnh những đoàn thuyền đánh cá trở về sau ngày dài vượt khơi xa.
Dưới ngòi bút của Tế Hanh, khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trên bến quê thật ồn ào, tấp nập, tràn đầy tiếng cười nói vui vẻ sau một chuyến ra khơi bội thu với những chiếc ghe đầy cá, với những con cá tươi ngon. Để rồi, những người dân chài lưới nơi đây lên tiếng thầm cảm ơn thiên nhiên, cảm ơn người mẹ biển cả đã dịu hiền, chở che, bảo vệ những đứa con để họ có thể trở về với “cá đầy ghe”. Đồng thời, trong niềm vui ấy, tác giả đã khắc họa hình ảnh những người dân làng chài với vẻ đẹp thật khỏe khoắn.
Hình ảnh những người dân làng chài hiện lên với làn da đen bởi rám nắng cùng thân hình với những bắp thịt cuồn cuộn đã tạo nên phong thái khỏe khoắn, mạnh mẽ của họ. Thêm vào đó, cụm từ “vị xa xăm” còn gợi lên vị mặn của biển cả, của đại dương bao la, mênh mông, dường như, tất cả chúng đã thấm sâu vào thân hình của những con người nơi đây. Cùng với hình ảnh những người dân làng chài, bằng ngòi bút tài hoa tinh tế và tình yêu của mình, nhà thơ còn khắc họa hình ảnh con thuyền nghỉ ngơi sau ngày làm việc mệt nhọc.
Với nghệ thuật nhân hóa độc đáo cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác dường như đã làm hiện ra trước mắt người đọc hình ảnh con thuyền như một sinh thể có tâm hồn, như một sự sống lao động của những con người nơi đây, nó cũng có những cảm nhận của riêng mình sau mỗi hành trình ra khơi. Và để rồi, qua đó giúp chúng ta cảm nhận thấy tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ. Có lẽ phải thật sự giàu lòng yêu quê hương, luôn nhớ tới quê hương thì nhà thơ mới có những cảm nhận sâu sắc và độc đáo đến như vậy.
Thêm vào đó, tình yêu quê hương của nhà thơ Tế Hanh còn được bộc lộ trực tiếp qua nỗi nhớ quê hương trong khổ thơ cuối của bài thơ.
Những ngày tháng rời xa quê hương, trong nỗi lòng của Tế Hanh luôn hiện hữu nỗi nhớ quê da diết, sâu nặng. Nhớ về quê hương, nhà thơ nhớ những nét bình dị, thân thuộc nhất của nơi đây, đó là màu nước xanh của biển cả, là cá bạc, là thuyền vôi và đặc biệt là nhớ “cái mùi nồng mặn” – cái vị mặn mòi của biển cả đã thấm sâu vào trong mỗi người con làng chài.
Đặc biệt, điệp từ “nhớ” được lặp lại trong đoạn thơ đã nhấn mạnh rõ nét nỗi nhớ quê hương của nhà thơ. Chắc hẳn, nhà thơ phải yêu quê hương thật nhiều thì mới có một nỗi nhớ quê da diết, cháy bỏng đến vậy.
Với những hình ảnh thơ độc đáo, lãng mạn cùng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, bài thơ “Quê hương” đã giúp người đọc cảm nhận một cách chân thực và rõ nét tình yêu quê hương tha thiết, sâu sắc của nhà thơ Tế Hanh. Tình yêu ấy được thể hiện rõ nét trong những tháng ngày nhà thơ phải sống xa quê hương của mình.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Ngược dòng thời gian, Quê hương (1939) của Tế Hanh thực sự là mảnh hồn trong trẻo mà nhà thơ có được trước Cách mạng tháng Tám. Giữa lúc phần đông các thi sĩ của phong trào thơ mới đang thở than, sướt mướt trong dàn đồng ca sầu với tình yêu tuyệt vọng, mối sầu cô đơn thì Quê hương của Tế Hanh cất lên như một tiếng thơ khỏe khoắn, khác lạ:
Tế Hanh là một nhà thơ lãng mạn, nhiều người cho rằng làm thơ lãng mạn phải nói đến tình yêu đau khổ, phải nhớ nhung đắm đuôi. Bài thơ này được viết khi ông mười tám tuổi, với bao mơ mộng của tuổi học trò. Tác giả xa quê nhớ về làng tôi ở nhưng cảm hứng thơ lại phân chấn, không hề gây cảm giác xa xôi, buồn man mác.
Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi buồn, bởi đó là kỷ niệm chập chờn hiện lên trong ký ức, trong nỗi nhớ thương. Ta nhớ tới vần thơ xao xác buồn đến nao lòng của Lưu Trọng Lư:
Thế nhưng với Tế Hanh, cũng là thơ hoài niệm nhưng hình ảnh thơ khoẻ khoắn, cụ thể, rõ ràng như hiện thực trước mắt, sống động đến vô cùng. Thời khắc nhà thơ nhớ về làng quê mình ấy là:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Câu thơ mở ra không gian bát ngát, trong sáng, màu sắc rạng rỡ của miền biển khơi. Lời thơ như có nhạc, có hoa, có tiếng sóng, tiếng gió, thật tươi nhạc, tươi vui không chút buồn ảo não.
Nhớ về làng chài, nhà thơ nhớ cảnh đoàn thuyền ra khơi nhớ cái khỏe mạnh, phóng khoáng của dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Con thuyền không phải buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ (Đỗ Phủ) hay Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi (Anh Thơ) mà con thuyền đầy phấn khích, dường như cũng mang sức trẻ, lướt nhanh trên đầu sóng, ngọn gió, hăm hở:
Miêu tả cánh buồm của con thuyền ấy, nhà thơ đã tìm đến một hình ảnh so sánh, liên tưởng đẹp:
Cánh buồm – cái cụ thể hữu hình được so sánh với hồn làng – cái trừu tượng vô hình. Hồn làng tức linh hồn, là nét riêng sâu thẳm, linh thiêng của quê hương, của làng chài mà nhà thơ cảm nhận qua một cánh buồm giương. Hình ảnh thơ thật khoáng đạt, kỳ vĩ, mang sức vóc tung tỏa của nó. Đây cũng là sự phát hiện tinh tế, chính xác của nhà thơ: cánh buồm thân thuộc, gắn bó, không thể thiếu trong đời sống mưu sinh, biểu tượng của một làng chài.
Nhà thơ còn nhân hóa cánh buồm no gió ấy mang sức vóc cường tráng, khỏe mạnh của một chàng trai rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Không hiểu sao đọc câu thơ này của Tế Hanh tôi lại nhớ tới câu thơ thật lãng mạn của Tố Hữu trong niềm vui bất tuyệt:
Ngôn ngữ miêu tả trong câu thơ của Tế Hanh giàu giá trị tạo hình, đường nét phóng khoáng, khiến con người, con thuyền, cánh buồm cũng nổi hình, nổi khối, cựa quậy, sống động giống như những sinh thể kỳ vĩ.
Cảnh dân làng ra khơi đánh cá trở về trong nỗi nhớ của nhà thơ cũng thật tươi vui, gợi không khí thanh bình, no ấm:
Giống như bàn tay của nhà điêu khắc, ngôn ngữ tạo hình của Tế Hanh đã tạc nên bức phù điêu hùng vĩ về chân dung con người làng chài rắn chắc, khỏe mạnh như bức tượng đồng nâu với làn da ngăm rám nắng cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Họ là kết tinh cho sức mạnh dãi dầu nắng, gió, sóng biển. Họ là đứa con của biển.
Vẫn con thuyền ra khơi, giờ đây trở về sau một ngày chạy đua cùng sóng gió được nhà thơ nhân hóa giống như một con người, một nhà hiền triết với dáng nằm thư giãn, lặng lẽ, suy tư:
Nghe (cảm nhận bằng thính giác) nhưng ở đây lại nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ; sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế. Không chỉ con người mà ngay đến cả con thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, thấy vị mặn mòi của muối biển đang râm ran trong cơ thể mình hay đó chính là cái dư vị dịu êm mà giản dị của nhịp đời miền quê biển.
Tuổi nhỏ của Tế Hanh chắc chắn đã trải qua cái mùi nồng mặn của những mẻ cá vàng, trong lời ru bát ngát, êm êm của bốn bề sóng vỗ thì mới viết được những câu thơ như thế này. Không là người con của vạn chài cũng không thể viết được những câu thơ như thế. Khi biết âm thầm hóa hồn mình vào hồn thơ để lắng nghe, mở rộng mọi giác quan để phập phồng thu nhận mọi cảm giác Tế Hanh mới viết được những câu thơ tài hoa đến vậy.
Phải chăng chất muối mặn mòi, thấm dần trong từng thớ vỏ chiếc thuyền nay đã thấm sâu vào làn da, thớ thịt, tâm hồn Tế Hanh để thành niềm ám ảnh bâng khuâng, kỳ diệu. Tế Hanh thật tài tình và thật tinh khi sống trong lòng sự vật có khả năng nghe thấu tiếng lòng, cảm giác của những vật vô tri. Chẳng thế mà trong lời con đường quê nhà thơ cũng đã nhập hồn vào con đường nhỏ chạy lang thang để mang nỗi buồn vương chạy khắp làn.
Kết thúc bài thơ có hai chữ nhớ:
nhưng ý thơ không hề gây cảm giác yếu mềm, bi lụy mà vẫn khỏe khoắn, tươi mới. Nỗi nhớ ấy gắn liền với những gì thân thuộc của làng chài màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, sắc màu trong sáng, hương vị nồng ấm đậm đà . Nỗi nhớ cồn lên, mãnh liệt tồi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Đó là hương vị quê hương, hương vị thân thiết, ruột thịt của người thân.
Bài thơ có thể coi là bức tranh quê đẹp, trong sáng, lời thơ khỏe khoắn. Nổi bật trong bức tranh ấy là ba hình ảnh: dân chài lưới, cánh buồm giương, con thuyền. Hình ảnh nào cũng đẹp, sắc nét, phóng khoáng đầy sức sống, đậm đà hương vị biển. Đó có thể coi là nét riêng, điệu hồn quê hương mà nhà thơ vương vấn suốt đời.
Cũng chính vì thế mà bức tranh quê trong nỗi nhớ của Tế Hanh không có nét dáng buồn như bức tranh quê của các nhà thơ mới với đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi quán tranh đứng im im hoa xoan tím rụng tơi bời (Anh Thơ), mà là bức tranh quê với đường nét tươi tắn, khỏe khoắn được họa lên từ tình cảm đậm đà, trong sáng của tuổi hoa niên dành cho quê hương mình.
Nếu không gắn bó, yêu thương quê hương mình bằng tình cảm trong sáng, đằm thắm thì nhà thơ không thể cảm nhận và thể hiện được một cách tài hoa, sinh động những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê trong những câu thơ tươi tắn, nồng nàn như vậy. Quê hương (1939) của Tế Hanh thật đúng là mảnh hồn trong trẻo nhất mà ta gặp trong thơ trước Cách mạng tháng Tám.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng 🌼 15 Bài Biểu Cảm Hay
Bài văn cảm nhận về bài thơ Quê Hương ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh ôn tập nhanh chóng để chuẩn bị cho bài viết và kỳ thi sắp tới.
Tế Hanh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới, ông đã góp phần đem đến cho thơ ca Việt Nam một hương sắc mới mẻ và lạ lẫm.
Nếu như đến với Huy Cận, ta bắt gặp một hồn thơ mang nặng nỗi đau đời, tuyệt vọng. Hay Chế Lan Viên, với nỗi đau được tạo nên từ một tâm hồn đang trỗi dậy với bao điều suy nghĩ, bao nỗi xót xa về cuộc đời. Thì đến với Tế Hanh, ta bắt gặp một hồn thơ mang một vẻ đẹp non tơ, trong trẻo khác lạ. Điều đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Quê hương” của ông được viết 1938 – khi đó nhà thơ mới tròn 17 tuổi.
Hai tiếng “quê hương” nghe rất thân thương, mộc mạc và gần gũi với mỗi con người Viêt Nam. Đó là nơi ta sinh ra, cất tiếng khóc chào đời, là khi đi xa ta muốn trở về trong vòng tay của gia đình để được yêu thương, bao bọc. Vì vậy, trong tâm trí của mỗi người, quê hương rất đỗi quen thuộc, nó gắn liền với tuổi thơ là những giếng nước, gốc đa, với vườn rau, buồng chuối, với cánh đồng lúa mênh mông…. Còn quê hương trong tâm trí Tế Hanh là một làng chài ven biển nằm trên cù lao giữa bốn bề sông nước:
“Làng tôi” – hai tiếng được cất lên một cách rất tự nhiên. Tác giả muốn giới thiệu chung về làng quê của mình, một làng quê nghèo bình dị như bao làng quê khác. Ở đây người dân sống bằng nghề chài lưới, cuộc đời gắn liền với tiếng sóng, tiếng gió, với vị mặn của vùng biển thôn quê. Không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, mà nhà thơ còn miêu tả cụ thể bức tranh làng quê thật sinh động, tỉ mỉ đến từng chi tiết:
Đến đây, một khung cảnh làng quê đang được mở ra trước mắt với một không gian bao la rộng lớn, với bầu trời cao rộng trong veo ngập ánh sáng. Cùng với gió nhè nhẹ nhuốm thêm ánh nắng hồng của buổi bình minh. Một ngày mới bắt đầu. Ngày mới tràn đầy năng lượng với tinh thần hăng hái của người dân ra khơi.
Bức tranh lao động được tác giả miêu tả cụ thể như đang được chứng kiến tận mắt vậy. Với lối viết độc đáo, đặc sắc bằng việc sử dụng biện pháp so sánh “con thuyền như con tuấn mã”, cùng với việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh “hăng, phăng, vượt”, thêm tính từ “mạnh mẽ” đã tạo nên một bức tranh vô cùng hùng vĩ. Làm cho ta thấy được khí thế phăng phăng, một tinh thần dứt khoát của những người con đất biển, thấy được sức mạnh dũng mãnh của con thuyền băng băng như muốn vượt lên sóng vỗ, vượt lên gió to giữa không gian biển cả để vươn mình ra khơi.
Với tình cảm tươi trẻ và hồn nhiên, tác giả đã cảm nhận được vẻ đẹp và sức sống bền vững của quê hương qua những hình ảnh thơ đẹp, giàu sức sáng tạo. Chiếc thuyền, một hình ảnh bình dị mà thân quen nay được nhà thơ ví như “mảnh hồn làng”. Hình ảnh thơ bay bổng, giàu tính tưởng tượng.
Từ một vật vô tri vô giác, cánh buồm đã được ví như như một linh hồn rất đỗi linh thiêng của quê hương. Nó như một phần không thể thiếu, không thể tách rời của người dân làng chài. Chỉ có những người gắn bó rất gần gũi, có tình cảm yêu thương sâu nặng với cuộc đời, với làng chài ven biển và với con người nơi đây thì nhà thơ mới cảm nhận được một cách tinh tế đến vậy.
Nếu như ở trên tác giả miêu tả đoàn thuyền ra khơi đánh cá với một khí thế sôi nổi, vui vẻ, năng động thì cảnh đoàn thuyền đánh cá về bến cũng được nhà thơ khắc họa với một giọng điệu đầy sự phẩn khởi, lạc quan:
Đoạn thơ là cảnh thuyền cá về bến sau một ngày lao động vất vả trên biển. Với việc sử dụng tính từ “ồn ào, tấp nập” đã toát lên một không khí náo nhiệt đầy hối hả của những người dân vui mừng đón đoàn thuyền đánh cá trở về với “những con cá tươi ngon thân bạc trắng” nhìn bắt mắt.
Đã là dân vùng biển, thì cuộc sống của họ phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Họ lao động vất vả để mong muốn có được cuộc sống no ấm hơn. Vì thế, giây phút đón người thân trở về bình an sau chuyến đi là niềm vui lớn lao hơn tất cả. Họ thầm cảm ơn trời đất đã cho sóng yên biển lặng để người dân trở về được an toàn.
Nổi bật lên giữa khung cảnh người người, nhà nhà đang tấp nập, nhộn nhịp thu hoạch cá là hình ảnh khỏe khoắn đầy sức sống của những thân hình vạm vỡ, cường tráng quanh năm bôn ba vật lộn với đại dương bao la. Những thân hình ấy thấm đẫm những hơi thở, nhịp sóng và vị mặn nồng của muối biển.
Đến đây hình ảnh chiếc thuyền được tác giả nhân hóa lên giống như con người sau một ngày làm việc vất vả và giờ là lúc được nghỉ ngơi. Hình ảnh con thuyền đã trở nên có hồn hơn bao giờ hết. Nó không còn là một phương tiện giao thông thông thường nữa mà nó đã trở thành một người bạn thân thiết của cư dân. Không chỉ con người mà cả chiếc thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, cái hương vị mằn mặn chan chát như thấm sâu thấm đậm vào từng làn da, thớ thịt của con người. Một bức tranh toàn cảnh đã được nhà thơ tái hiện lại vô cùng sắc bén.
Đằng sau bức tranh quê hương với những hoạt động của người dân làng chài trên vùng biển là nỗi lòng nhớ thương da diết của nhà thơ. Nhớ những gì gần gũi nhất, thân thương nhất, quen thuộc nhất của quê hương mình “như màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi”, đặc biệt nhớ cái mùi đặc trưng không thể lẫn đi đâu được của vùng biển, cái vị nồng mặn của đất trời yêu thương.
Có thể nói, đây là một bức tranh toàn cảnh về quê hương yêu dấu của nhà thơ. Với một giọng điệu khỏe khoắn, với những hình ảnh sinh động cùng với sự kết hợp hài hòa, độc đáo những biện pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa. Tế Hanh đã tạo nên một bức tranh quê hương rất mới mẻ và tươi tắn. Phải là một nhà thơ gắn bó tha thiết với cuộc đời, với đời sống cần lao của người dân nơi đây thì nhà thơ mới có được những vần thơ hay đến vậy.
Mời bạn tham khảo 🌠 Cảm Nhận Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang 🌠 15 Bài Biểu Cảm Hay
Trong Thi nhân Việt Nam, khi nhận xét về Tế Hanh, Hoài Thanh – Hoài Chân đã viết: “Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được những nét thần tình về cảnh sinh hoạt chốn thôn quê”. Những nét thần tình ấy được ghi lại bởi một hồn thơ khỏe khoắn, tươi mới, phơi phới sức sống, có vẻ như “lạc điệu” giữa rừng thơ mới đang sướt mướt, thở than và một tình yêu quê hương sâu đậm.
Cảnh sinh hoạt chốn thôn quê ấy ta bắt gặp trong những sáng tác về quê hương, về cái làng chài ven biển con sông Trà Bồng lưu giữ bao kỉ niệm tuổi thơ ông. Quê hương – bài thơ rút trong tập Nghẹn ngào là một trong số những bài thơ về quê hương rất hay đó. Bài thơ mở đầu như là lời tự xưng danh, tự thuật rất đỗi tự nhiên và mộc mạc.
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới. Và sau đó nhà thơ đã kể một cách say sưa, hào hứng về cái làng chài của mình. Câu thơ có tính thông báo tiếp theo cho thấy đây là một làng chài ở vùng cửa sông gần biển. Bằng hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu vị trí địa lí và đặc điểm nghề nghiệp của làng quê. Quê là làng – nghề của làng là chài lưới.
Trong tâm tưởng của nhà thơ, sau lời giới thiệu ấy, hình ảnh làng chài như đang hiện ra trước mắt. Và nhà thơ đã miêu tả cụ thể một ngày ra khơi đẹp trời, dân làng bơi thuyền đi đánh cá. Trong khung cảnh trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng. Phải nói đó là một buổi sáng đẹp trời lí tưởng – vẻ đẹp tinh khôi, mát mẻ, dễ chịu, thoáng đãng, bao ia sắc hồn của bình minh.
Và chỉ những người làm nghề chài lưới mới thấy hết được tầm quan trọng thiết yếu của những buổi đẹp trời – Không chỉ báo hiệu một buổi ra khơi yên lành, mà còn hứa hẹn những mẻ lưới bội thu. Trong cái quang cảnh dễ làm lòng người phấn khích ấy, đoàn trai tráng bơi thuyền ra khơi, bắt đầu một ngày lao động của mình. Làm nghề đánh cá nặng nhọc này phải là những người khỏe mạnh vạm vỡ mới có thể đảm đương nổi.
Chỉ có những chàng trai mới có thể điều khiển được chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã, phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Có thể nói đây là một chuyến ra khơi đầy hào hứng. Những câu thơ miêu tả trực tiếp cảnh dân làng ra khơi đánh cá có ý nghĩa như những chi tiết tả thực giúp người đọc hình dung được không gian hình ảnh, đoàn thuyền khá sinh động. Trên nền kể tả ấy xuất hiện hai câu thơ mang vẻ đẹp bất ngờ:
Cánh buồm là một vật cụ thể hữu hình được ví với mảnh hồn làng là cái trừu tượng, vô hình – một cách ví von nhờ sự liên tưởng khá xa và độc đáo của tác giả. Mỗi một vùng quê sinh sống lâu đời, dường như bao giờ cũng mang một nét rất riêng. Và người xa quê thường cảm nhận nó như linh hồn của làng quê.
Đối với Tế Hanh thuở mười tám tuổi, hình ảnh chiếc buồm ra khơi dường như mang hơi thở, nhịp đập, quê hương. Một cánh buồm rướn thân trắng bao la thâu góp gió thật đẹp trong dáng vẻ cường tráng, sức vóc tung tỏa của nó. Hai câu thơ diễn đạt hình ảnh giàu ý nghĩa, đưa nó lên thành biểu tượng của tâm hồn. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lại được miêu tả trong bốn câu thơ:
Tác giả không tả một ai cụ thể, mà là tả chung không khí làng chài, ở đây chỉ có âm thanh ồn ào; chỉ có trạng thái tấp nập, nhưng rõ ràng là một không khí vui vẻ, rộn ràng, thỏa mãn. Nhờ ơn trời như là tiếng reo vui, tiếng thở phào nhẹ nhõm cảm tạ thiên nhiên trời biển đã giúp đỡ. Phải con em làng chài mới thấy hết được niềm vui bình dị khi đón ghe đầy những con cá tươi ngon.
Trong khung cảnh ấy, hình ảnh những trai tráng sức vóc dạn dày sóng gió, có làn da ngăm rám nắng được hiện lên qua những câu thơ thật đẹp Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Đây là chân dung những người dân chài lưới, đó như là những sinh thể được tách ra từ biển, mang vị mặn mòi của biển, mang theo về cả những hương vị biển xa. Họ là những đứa con của biển khơi.
Câu thơ thật lãng mạn, khoáng đạt, mang vẻ đẹp giản dị nhưng cũng thật khỏe khoắn, thơ mộng. Con thuyền trước đây hăng như tuấn mã, phăng mái chèo mạnh mẽ ra đi, bây giờ mỏi mệt trở về bến nghỉ. Con thuyền lại được nhân hóa, nó nằm im, mỏi mệt thư giãn và lắng nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Trạng thái nghỉ ngơi của con thuyền thật đặc biệt. Và cũng phải yêu quý lắm, với có thể thấy con thuyền cũng là một thành viên của làng biển như tác giả đã hình dung. Nhưng nói về con thuyền, kỳ thực cũng nói về con người cả thôi. Giờ đây những người dân chài có thể hoàn toàn yên tâm mà ngả mình mãn nguyện và lặng yên thư giãn. Dư vị của chuyến đi chỉ còn là đôi hình ảnh thấp thoáng, chập chờn trong tưởng tượng êm dịu của họ.
Kết thúc bài thơ, tác giả trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ về hình ảnh làng chài theo ấn tượng chung nhất: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, con thuyền rẽ sóng, và đặc biệt nhớ cái mùi nồng mặn quá. Nhớ đến cái mùi vị riêng biệt của xứ biển tức là nỗi nhớ thật da diết và thật sâu sắc. Vâng, đó là mùi của biển cả, của sóng, của gió, của rong rêu, của cá, của cả cái vị mồ hôi trên lưng áo người đi biển. Cái mùi vị quen thuộc và thân thương đó cũng chính là một phần của hồn làng, của quê hương.
Bài thơ trong treo từ đầu đến cuối. Đó là tấm lòng yêu nhớ quê hương của một chàng trai thuần hậu gắn bó với cuộc đời. Với Tế Hanh, cái làng chài lưới này đã trở thành nguồn thi cảm không vơi cạn. Người ta thường nói ông là nhà thơ của quê hương sông nước, mà trong nhiều trường hợp quê hương chỉ thu gọn về một cái làng chài lưới của riêng ông.
Có thể khẳng định rằng Quê hương là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ dung dị, đằm thắm của Tế Hanh. Với nghệ thuật đặc sắc ở cách cảm nhận tinh tế, hình ảnh đặc trưng và chắt lọc, tác giả làm sống mãi một làng chài thân thương trìu mến. Thủy chung với một miền quê – một miền thơ như thế nên vần thơ quê hương của Tế Hanh vẫn giữ mãi một vẻ riêng độc đáo, hấp dẫn bao thế hệ yêu thơ.
Gửi đến bạn 🍃 Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 🍃 15 Mẫu Hay
Tài liệu văn cảm nhận bài thơ Quê Hương học sinh giỏi sẽ mang đến những cảm nhận văn học sâu sắc giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng viết.
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới…, Quê hương tôi có con sông xanh biếc – Nước gương trong soi bóng những hàng tre…; những vân thơ thiết tha đôi với đất mẹ quê cha là nét đẹp nhất trong hồn thơ Tế Hanh hơn 60 năm qua.
Bài thơ Quê hương được Tế Hanh viết năm 1939, khi nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, đang học Trung học tại Huế. Nỗi nhớ làng chài, quê hương thân yêu ở Bình Dương, Quảng Ngãi đã tỏa rộng và thấm sâu vào bài thơ. Hai câu thơ đầu nói về làng tôi. Thân mật, tự hào, yêu thương… được thể hiện qua hai tiếng làng tôi ấy:
Quê hương là một làng chài, bốn bề sông nước bao vây, một làng nghèo thuộc vùng duyên hải miền Trung cách biển nửa ngày sông. Giọng điệu tâm tình, một cách nói chân quê dân dã vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Những câu thơ tiếp theo là hồi tưởng lại một nét đẹp của quê hương: Cảnh làng chài ra khơi đánh cá.
Kỉ niệm về quê hương như được lọc qua ánh sáng tâm hồn. Một bình minh đẹp ra khơi có gió nhẹ, có ánh mai hồng. Có những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh bơi thuyền đánh cá. Cảnh đẹp, sáng trong, giọng thơ nhẹ nhàng thể hiện khung cảnh niềm vui của làng chài trong buổi xa khơi.
Một loạt ẩn dụ, so sánh nói về con thuyền, mái chèo và cánh buồm. Tác giả ví chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã tạo nên một hình ảnh khỏe, trẻ trung diễn tả khí thế hăng hái, phấn khởi lên đường. Chữ hăng dùng rất hay, rất đích đáng. Nó liên kết với các từ ngữ: dân trai tráng và tuấn mã hợp thành tính hệ thống, tạo nên một vẻ đẹp của văn chương. Có người lầm tưởng là chữ băng rồi bình giảng là băng băng lướt sóng!
Mái chèo như những lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống nước, phăng xuống nước một cách mạnh mẽ, đưa con thuyền vượt trường giang. Sau hình ảnh chiếc thuyền, mái chèo là hình ảnh cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng. Giương nghĩa là căng lên để đón gió ra khơi. So sánh cánh buồm to như mảnh hồn làng là hay, đặc sắc. Cánh buồm to biểu tượng cho hình bóng và sức sống quê hương.
Nó tượng trưng cho sức mạnh lao động sáng tạo, ước mơ về ấm no, hạnh phúc của quê nhà. Nó còn tiêu biểu cho chí khí và khát vọng chinh phục biển khơi của đoàn trai tráng bơi thuyền đi đánh cá. Câu thơ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió là một câu thơ đậm đà ý vị mang cảm hứng lao động và cảm hứng vũ trụ.
Cánh buồm được nhân hóa. Ba chữ rướn thân trắng gợi tả một cuộc đời trải qua nhiều mưa nắng, gắng sức quyết tâm lên đường. Đây là khổ thơ xuất sắc tả cảnh ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, tự hào ca ngợi sức sống của làng chài thân thương:
Đứa con xa quê có bao giờ quên được cảnh bà con làng chài đón đoàn thuyền đánh cá từ biển khơi trở về. Các từ ngữ ồn ào, tấp nập diễn tả niềm vui mừng đón ghe về. Niềm vui sướng tràn ngập lòng người, là của khắp dân làng. Cảnh đón ghe về thực sự là ngày hội lao động của bà con ngư dân:
Cá tươi ngon thân bạc trắng đầy khoang thuyền. Được mùa cá, vui sướng trong niềm vui ấm no, hạnh phúc, bà con làng chài khẽ thốt lên lời cảm tạ đất trời đã cho biển lặng sóng êm, cho cá đầy ghe. Sự cầu mong và niềm tin thánh thiện nhờ ơn trời ấy đã biểu lộ những tấm lòng mộc mạc, hồn hậu của những con người suốt đời gắn bó với biển, vui sướng, hoạn nạn cùng với biển. Tế Hanh đã thấu tình quê hương khi ông viết:
Ta tưởng như ca dao, dân ca đã thấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh:
Đoạn bốn bài thơ nói về bến quê bằng hai nét vẽ khỏe khoắn và bình yên. Những chàng trai làng chài có làn da ngăm rám nắng khỏe mạnh, can trường được tôi luyện trong gió sóng đại dương, trong mưa nắng dãi dầu. Họ mang theo hương vị biển. Hai chữ: nồng thở rất thần tình làm nổi bật nhịp sống lao động hăng say, dũng cảm của những dân chài mang tình yêu biển. Hình tượng thơ mang vẻ đẹp lãng mạn:
Nét thứ hai là con thuyền. Sau một chuyến ra khơi vất vả trở về nó mỏi mệt nằm im trên bến. Con thuyền là một biểu tượng đẹp của làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng gió:
Con thuyền được nhân hóa với nhiều yêu thương, vần thơ giàu cảm xúc, mang tính triết lí về lao động trong thanh bình, Chữ nghe (nghe chất muối) thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và thi vị. Bến quê trở thành một mảnh tâm hồn của đứa con li hương. Đoạn cuối nhiều bồi hồi nhớ thương, thương nhớ hình bóng quê hương. Điệp ngữ nhớ làm cho giọng thơ thiết tha, bồi hồi, sâu lắng. Xa quê nên tưởng nhớ khôn nguôi. Nhớ màu nước xanh của sông, biển làng chài. Nhớ cá bạc, nhớ chiếc buồm vôi…
Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con thuyền rẽ sóng ra khơi đánh cá. Xa quê nên mới thấy nhớ hương vị biển, hương vị làng chài thương yêu cái mùi nồng mặn quá. Tình cảm thấm vào câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang trải của hồn quê vơi đầy thương nhớ. Cảm xúc đằm thắm mênh mang:
Bài thơ Quê hương có một câu thơ đề từ rất gợi cảm: “Chim bay dọc biển đem tin cá”. Đó là câu thơ của phụ thân nhà thơ. Nhớ quê hương, nhớ người cha thân yêu dào dạt trong hồn thơ Tế Hanh. Sau này, 1963, khi sống ở miền Bắc, trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, trong bài thơ Nghe tin cha mất, ông xót xa hồi tưởng:
Có cảm nhận được câu thơ đề từ ấy ta mới nắm bắt được tình thương nhớ quê hương của Tế Hanh qua bài thơ kiệt tác này. Bài thơ Quê hương đã đi suốt một hành trình trên 60 năm. Nó gắn liền với tâm hồn trong sáng, với tuổi hoa niên của Tế Hanh. Thể thơ tám tiếng, giọng thơ đằm thắm dào dạt, gợi cảm. Những câu thơ nói về dòng sông, con thuyền, cánh buồm, khoang cá, chàng trai đánh cá, bến quê… và nỗi nhớ của đứa con xa quê… rất hay, đậm đả biểu lộ một hồn thơ đẹp.
Nghệ thuật phối sắc, sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa và chuyển đổi cảm giác khá thành công, tạo nên những vần thơ trữ tình chứa chan thi vị.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Bài Thơ Ông Đồ 🍀 12 Bài Văn Hay Nhất
Bài văn mẫu cảm nhận bài thơ Quê Hương đặc sắc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nhà thơ Thanh Thảo có đôi lời nhận xét về nhà thơ Tế Hanh rằng: “Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự mộc mạc, chân thành, vì sự trong trẻo, giản dị như một dòng sông”.
Nếu để nói về vị trí của ông trong thơ Mới thì ta có thể dùng hai từ “bình lặng”, hồn thơ ông không bật lên mạnh mẽ như cái cuồng nhiệt, say mê của Xuân Diệu, cũng không đủ kỳ dị, điên cuồng như Hàn Mặc Tử, không gây ấn tượng sâu sắc bởi sự “quê mùa” của Nguyễn Bính, và cũng chẳng có cái buồn thiên thu của Huy Cận.
Thế nhưng sau tất cả chưa bao giờ người ta quên đi Tế Hanh, một nhà thơ có chất giọng hồn nhiên, phong độ sáng tác đều đều, và mỗi tập thơ của ông đều được ghi dấu bằng một vài bài thơ đáng nhớ, đủ để ghi vào lòng độc giả những cảm xúc mới mẻ, tinh tế của một hồn thơ trẻ. Có thể nói quê hương là nguồn cảm hứng lớn nhất trong đời thơ của Tế Hanh mà bài thơ Quê hương chính là một khởi đầu đầy xuất sắc và hứa hẹn.
Quê hương dù được sáng tác vào những năm đầu khi Tế Hanh chập chững đặt những dấu chân đầu tiên trên thi đàn Việt Nam, cụ thể là trong phong trào thơ Mới thế nhưng bản thân tác phẩm đã đem đến những nguồn cảm xúc mới lạ, đồng thời cũng thể hiện được cái tài năng và duyên đặc biệt của nhà thơ đối với quê hương, một khái niệm rất đỗi thân thuộc nhưng không phải nhà thơ nào cũng đủ tinh tế để viết về nó một cách mềm mại và sâu sắc.
Khi nhận định về Tế Hanh và Quê hương Hoài Thanh đã viết rằng: “Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương… Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy mờ mờ…”. Mà sở dĩ có được ánh nhìn sâu sắc như vậy cũng bởi ông có sẵn một tâm hồn tha thiết sâu nặng với cuộc đời với quê hương và đất nước.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu khái quát về làng quê “Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”, với giọng thơ rất đỗi nhẹ nhàng tình cảm tựa như một lời tự sự chân thành. Nhưng đó không chỉ là một lời giới thiệu, mà hơn thế nữa nó còn gợi ra dáng hình của quê hương, đó một làng chài “nước bao vây” tựa như một cù lao nổi lên trên sông dập dềnh sóng nước.
Nó cũng gợi ra những đặc điểm về vị trí địa lý, về khoảng cách từ làng ra tới biển cả bằng cụm từ “cách biển nửa ngày sông”, và cũng chỉ ra đó là một làng quê nghèo làm ăn sinh sống bằng nghề chài lưới vất vả. Tất cả đều được Tế Hanh dùng những từ ngữ giản dị, mộc mạc với lối ăn sóng nói gió đậm chất miền biển để diễn tả về một quê hương đầy tha thiết, với đôi mắt mặn nồng yêu thương.
Với một người con miền biển có lẽ rằng cảnh dong thuyền đi đánh cá của ngư dân đã in sâu vào trí óc, thế nên Tế Hanh đã ghi lại bằng những cảm xúc dạt dào, trong sáng với những hình ảnh đầy chất thơ. Đó là một buổi sáng đẹp, trời trong xanh, gió hiu hiu thổi, ánh nắng ban mai ráng hồng trên khắp cả làng chài, và dưới khung cảnh tuyệt đẹp ấy những người thanh niên khỏe khoắn tràn đầy sức sống, bắt đầu công việc của mình với khí thế sôi nổi, rộn ràng “Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”.
Khung cảnh lao động dưới ánh mắt của nhà thơ diễn ra thật mạnh mẽ, tràn đầy khí thế, dưới sự hợp sức đầy quyết tâm của những chàng trai làng chài chiếc thuyền lướt nhẹ ra khơi, dường như không chịu bất kỳ cản trở nào, hùng dũng, tràn đầy sinh lực tựa như con tuấn mã đã kinh qua hàng trăm trận chiến.
Có thể nói rằng con thuyền trong thơ của Tế Hanh luôn nắm giữ vị thế chủ động, “Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang”, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thuần thục và can trường trước sóng biển. Trước biển lớn, sóng nước mênh mông thế nhưng chiếc thuyền nhỏ bé lại nổi lên với khí thế mạnh mẽ, sôi sục lòng nhiệt huyết, dường như biển cả đã trở thành bức nền xanh làm bật lên vẻ đẹp hiên ngang của chiếc thuyền đánh cá.
Nhưng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả khí thế sôi nổi lúc ra khơi, mà Tế Hanh còn rất tinh tế và khéo léo trong việc vận dụng thủ pháp so sánh giữa “cánh buồm” với “mảnh hồn làng”. Có thể nói rằng đây là đột phá nghệ thuật trong phong cách thơ của tác giả, lấy cái hữu hình đem so sánh với cái trừu tượng vốn tưởng là điều không thể nhưng Tế Hanh đã làm được mà còn làm rất xuất sắc. Ông đã vẽ ra dáng hình mảnh hồn của làng chài miền biển một cách rất thần tình, tinh tế.
Cánh buồm trắng mang theo mảnh hồn, mảnh tình, thấm đẫm tình cảm của quê hương, luôn theo sát từng bước chân ngư dân trong công cuộc lao động. Ở đó dung hòa nhiều thứ tình cảm đó là nỗi mong đợi, hy vọng thiết tha của những người ở lại và cả nỗi nhớ da diết, một lòng hướng về quê hương của những người đang lao động ngoài khơi xa. Hình ảnh so sánh độc đáo đã mang về cho vần thơ của Tế Hanh sự lãng mạn, bay bổng, ở đó tình quê hiện lên một cách nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và gắn bó vô cùng.
Ở câu thơ tiếp “Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”, ta nhận ra tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa thông qua hai từ rất có sức gợi “rướn” và “thâu”. Dường như cánh buồm mang mảnh hồn làng ấy cũng có linh tính về công việc của người ngư dân thế nên nó mới cố sức “rướn” tấm thân trắng sao cho thật rộng để “thâu” góp được nhiều gió, đẩy thuyền ra khơi thật nhanh, thật xa.
Như vậy trong đôi mắt của Tế Hanh cánh buồm giờ đây cũng trở thành một nhân lực lao động, có những đóng góp nhất định vào công việc đánh bắt của người ngư dân. Từ đó ta nhìn ra được tư tưởng đoàn kết, hỗ trợ và gắn bó sâu sắc của người dân làng chài, gắn bó từ trong tâm hồn, tư tưởng, không chỉ là ở con người mà còn ở cả sự vật, tất cả đã kết hợp nhịp nhàng để làm ra những kết quả lớn.
Có cảnh ra khơi sôi nổi, nhiệt huyết thì cảnh ngư dân trở về cũng náo nhiệt và tươi vui không kém.
Vẫn tiếp tục với giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết yêu thương Tế Hanh, người đọc cảm nhận từ đoạn thơ cái cảm giác thư thái, thanh bình và niềm vui ấm no của ngư dân sau một đợt ra khơi đầy vất vả. Đồng thời Tế Hanh cũng thể hiện tấm lòng biết ơn sâu sắc đến biển cả quê hương, đã cho người dân được cuộc sống ấm no hạnh phúc, mẹ thiên nhiên nhân từ đã cho “biển lặng”, dốc công nuôi dưỡng nên nguồn cá dồi dào, ban cho ngư dân “Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”, để họ được hưởng niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả về một chuyến ra khơi về bội thu.
Chính bởi sinh ra và lớn lên giữa làng quê làm nghề chài lưới nên Tế Hanh mới có được những cảm nhận rất chân thực và tinh tế về người ngư dân và cuộc sống tâm hồn của họ. Người ngư dân quan năm vật lộn với biển cả thế nên họ chẳng thể nào có được một làn da trắng trẻo, thay vào đó họ mang một màu da đặc trưng “làn da ngăm rám nắng”, mang cảm giác khỏe khoắn và cũng nhiều vất vả.
Tinh tế hơn cả không biết bằng cách nào mà Tế Hanh có thể cảm nhận được cái “nồng thở vị xa xăm” trên những con người của biển cả, đó là hương muối mặn mòi, hương gió tận khơi xa đã thấm vào tận trong tâm hồn, cốt cách của con người. Từ đó xây dựng nên một hình tượng rất riêng, hình tượng người dân làng chài với phong vị của biển cả, rất khỏe khoắn, rất lam lũ và cũng thân thuộc vô cùng.
Không chỉ có riêng cảm nhận về người ngư dân sau buổi đánh bắt xa bờ, mà Tế Hanh còn chú tâm đến cả con thuyền, nếu như lúc ra khơi thuyền hăng hái, xung phong một cách mạnh mẽ, thì khi trở về thuyền cũng trở nên trầm tĩnh, nằm nghỉ mệt sau một đêm dài dong buồm ra khơi.
Có thể nói Tế Hanh luôn cảm nhận sự vật ở góc độ chúng linh tính, ông luôn mang ánh mắt thông cảm và yêu thương để nhìn tất thảy mọi vật trên quê hương, kể cả mảnh hồn làng vốn không bóng hình cũng trở nên có nét. Thuyền cũng như con người cũng biết cố sức dong buồm căng gió, rồi sau những cố gắng không ngừng nghỉ thuyền cũng muốn được nghỉ ngơi, tạo nên một cảm giác thư thả, yên bình của làng chài sau những ngày lao động vất vả.
Con thuyền nằm im “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ” như đang tâm sự với biển cả, ôn lại kỷ niệm ra khơi, và ở đó người ta nhận thấy có một sự chuyển đổi cảm giác rất đặc sắc, vị giác của Tế Hanh nếm thấy vị mặn của muối, tai thì “nghe” thấy vị muối và dùng xúc giác để cảm nhận sự mặn mòi của biển cả đang thấm dần trong thớ vỏ con thuyền, hay trong thân thể con người quê hương. Đó chính là sự hòa quyện, gắn bó sâu sắc của vạn vật đối với biển cả của quê hương.
Quê hương của Tế Hanh mang những đặc điểm nghệ thuật quen thuộc như so sánh, nhân hóa, từ ngữ giản dị, mộc mạc, thế nhưng bằng cái ánh nhìn và cảm nhận tinh tế nhà thơ đã đưa chúng ta đến với một bức tranh sinh hoạt của làng chài vừa sinh động vừa tình cảm nên thơ vô cùng.
Ở đó ta thấy Tế Hanh đã dành cho quê hương mình những tình cảm rất đỗi tha thiết sâu nặng, thế nên dù khi đã đi xa nhưng ông vẫn mãi nhớ về một quê hương với những con người mặn mòi muối biển, hơi thở nồng đượm vị xa xăm, vẫn nhớ như in cảnh con thuyền nằm im trên bến đỗ ngẫm nghĩ về biển cả mênh mông.
Gợi ý cho bạn 🌳 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đập Đá Ở Côn Lôn 🌳 11 Mẫu Hay
Quê hương trong mỗi người chúng ta là những cảm nhận khác nhau. Là nơi chúng ta sinh ra, được nuôi dưỡng bởi những câu ca ru ngọt ngào của mẹ:
Trong nền văn học Việt Nam đề tài quê hương luôn là đề tài mở muôn thuở, bởi đây là nơi cuội nguồn của mỗi chúng ta, nó thiêng liêng, mỗi vùng miền khác nhau có nét đẹp riêng. Bởi thế quê hương trong thơ ca luôn ấm áp, trữ tình, giàu cảm xúc, luôn lắng động niềm vui tự hào trong tâm hồn mỗi người. Tiêu biểu trong số những tác phẩm viết về quê hương là bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh.
Rất dễ để nhận bài thơ được mở đầu là lời giới thiệu của tác giả về làng quê miền biển của mình. Tế Hanh giới thiệu với mọi người về nghề nghiệp chính ở quê mình ngay trong những vần thơ đầu tiên của bài thơ, đó là nghề ngư nghiệp. Quê hương của tác giả rất đặc biệt khác hẳn với các vùng quê miền biến nằm ăn sát ra biển nhưng lại “cách biển nửa ngày sông”, bốn bề quanh năm sóng vỗ.
Cuộc sống mưu sinh của người dân ở đây là nghề “chài lưới” vất vả lênh đênh trên biến. Khung cảnh đi đánh cá được nhà thơ miêu tả rất thơ mộng, đẹp đến mê lòng người:
Buổi sáng khi tiết trời trong lành: bầu trời trong xanh, gió biển nhẹ, bình minh rực rỡ sắc hồng. Lúc đó, những người thanh niên, trai tráng trong làng cùng nhau căng buồm, tiến ra biển cả. Nếu những câu thơ ba và bốn nhẹ nhàng, tinh tế bao nhiêu thì hai câu thơ tiếp theo càng mạnh mẽ, quyết liệt và khỏe khoắn bấy nhiêu.
Trong hai câu thơ này, tác giả Tế Hanh đã sử dụng những động từ, tính từ mạnh: “hăng”, “phăng” kết hợp với phép so sánh độc đáo khiến cho bức tranh đi đánh cá trở nên giàu chất tạo hình, giàu đường nét và giáu cá tính mạnh. Việc sử dụng động từ “phăng” đã gợi tả sự khéo léo kết hợp sự tinh tế và khỏe mạnh của những người dân vùng chài lưới. Sức lực tràn trề của những người trai làng như truyền vào con thuyền, tạo nên khung cảnh ấn tượng, rất mạnh mẽ và hoành tráng:
Nhà thơ lấy hình ảnh cánh buồm để tượng trưng cho “hồn làng” bởi cánh buồm ấy hàng ngày tạo nên công ăn việc làm nuôi sống những người dân miền biển. Thuyền lướt ra khơi, cánh buồm được kéo lên từ từ rồi bất chợt căng phồng vì no gió… Những hình ảnh so sánh đẹp và gợi cảm đi vào bài thơ một cách tự nhiên, dung dị, như không cần một cố gắng kĩ thuật nào.
Cánh buồm dường như có sức mạnh phi thường trong không khí trong lành nó hiện lên với vẻ đẹp kiêu hãnh, đầy tự hào, cánh buồm vi vu trong gió biển. Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh buồm kiêu hãnh và thơ mộng. Lec-môn-tôp (nhà thơ Nga) có bài thơ trữ tình nổi tiếng về một cánh buồm khao khát đời giông tố:
Tình cảm gắn bó với làng quê khiến nhà thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn sơ, hồn hậu của những người dân chài khi đoàn thuyền đánh cá trỏ về:
Có thể nói cuộc sống lênh đênh sông nước là cuộc sống khắc nghiệt, luôn phải chuẩn bị tinh thần đương đầu với muôn trùng nguy hiểm buộc những người dân ở đây phải luôn đoàn kết, thống nhất với nhau để cùng hỗ trợ nhau trong công việc đánh bắt cá trên biển. Họ hợp lực với nhau trong những chuyên đi biển và chia sẻ, san sẻ những gánh nặng cùng nhau và mọi nỗi vui buồn.
Mỗi lần thuyền ra khơi đánh cá không chỉ người ra đi mà những người thân ở lại đều cầu khấn trời đất mong chuyến đi được bình an, may mắn. Kết quả của thành quả lao động không mệt mỏi ấy là khoang cá nặng chở về là niềm vui, là hạnh phúc của mọi nhà: ” Những con cá tươi ngon thân bạc trắng “. Hơn ai hết, người dân hiểu rằng: đằng sau những mẻ cá “tươi ngon” là bao nỗi vất vả gian nan, bao hiểm nguy mà người thân của họ đã trải qua.
Hình ảnh những chàng trai vùng biển mang một màu da thật riêng “ngăm rám nắng”, nước biển mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể họ – để gợi nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn: chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển, lúc trở về còn mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Cái mùi này chỉ những người yêu quê hương tha thiết, nồng nàn như tác giả Tế Hanh mới có thể cảm nhận được.
Chiếc thuyền dường như cũng hòa mình tựa như con người vậy, cũng mệt mỏi sau những ngày dài đi biển, cũng cần phải nghỉ ngơi. Cái chất muối thấm trong thớ vỏ cũng được tác giả cảm nhận bằng cách “nghe”, thật độc đáo!
Kết thức bài thơ là nỗi lòng của nhà thơ Tế Hanh, xa nơi mình lớn lên, nơi đã gắn bó cho ông biết bao kỷ niệm của tuổi thơ. Nỗi nhớ ấy khiến ông phải thốt nên lời: Nhớ màu nước biển xanh, nhớ những con cá bạc, nhớ cánh buồm trắng, nhớ con thuyền đang băng băng rẽ sóng ra khơi. Ông còn nhớ cả cái mùi muối mặn của biển quê nhà, thậm chí có những lúc nhớ quê hương mà ông thấy hình ảnh con thuyển ra khơi. Có thể thấy những hình ảnh ấy cứ trở đi trở lại, day dứt mãi trong tầm trí nhà thơ để rồi cuối cùng lại làm bật lên cảm xúc:
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động, đầy chất lãng mạn trữ tình về một làng quê miền biển, với những hình ảnh khoẻ khoắn, đầy sức sống của người dân làng chài và những sinh hoạt lao động thường ngày của làng chài. Bài thơ như một lời nói hộ những tình cảm yêu quê hương đất nước của người con xa quê.
Giới thiệu tuyển tập ☔ Nghị Luận Về Bài Thơ Sang Thu ☔ 15 Bài Văn Ngắn Hay
Bài thơ được viết với bố cục chặt chẽ, tác giả dành hai câu đầu để giới thiệu chung về làng quê, sáu câu thơ sau đó là cảnh thuyền ra khơi đánh cá trong buổi sớm mai hồng, thành quả được diễn tả trong tám câu tiếp khi đoàn cá trở về và khép lại bài thơ nhẹ nhàng, sâu lắng bằng nỗi nhớ làng quê, miền biển.
Cảnh dân chài ra khơi được tập trung diễn đạt ngay sau khi tác giả giới thiệu chung về miền quê:
Câu đầu đoạn thơ nói về thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi: Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng- Đó là không gian buổi sáng, với thời tiết đẹp, trong lành, gió không dữ dội mà nhẹ nhàng đủ để song lướt dài trên mặt biển. giới thiệu như vậy cũng là sự hứa hẹn những điều an yên, tốt đẹp cho một chuyến đi xa.
Những người dân làng chài được khắc họa vô cùng ngắn gọn: “Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.” Họ là những người con miền biển, gắn bó biển khơi, thuộc những đổi thay của biển. Họ là những “trai tráng” sung sức, khỏe mạnh làm công việc ra khơi thường ngày nên công việc đối với họ là “bơi thuyền”- không hề thấy chật vật, nặng nề mà nhẹ nhàng phóng lướt:
Khi ra khơi chiếc thuyền với cái khoang còn trống rỗng. Hình ảnh con thuyền được tác giả so sánh với con “tuấn mã”, khỏe mạnh, kiên cường đầy sức lực, đang hăm hở lên đường. Tính từ “hăng” đã diễn đạt đầy đủ sự hăm hở đó. Cùng với động từ mạnh “phăng”, “vượt” đã khắc họa ấn tượng về sự dũng mãnh của con thuyền vượt song ra khơi. “Vượt trường giang” là cái vượt xa, vượt dài, cần có sức lực mạnh mẽ.
Hai câu thơ Tế Hanh dùng biện pháp so sánh, những động từ mạnh đã vẽ lên hình ảnh con thuyền đầy khí thế khi ra khơi, đón biển bằng tất cả sức mạnh, sẵn sàng vượt lên trên thách thức của biển khơi. Hai câu thơ góp phần tạo nên không khí ra khơi cho người dân làng chài, và không nhắc nhiều đến hình ảnh người dân nhưng dường như con thuyền đã thay họ làm công việc đó.
Hình ảnh đáng nhớ về con thuyền đang cuốn ta vào một chuyến đi biển thì tác giả rẽ sang một lối phác họa mới:
Tế Hanh dành hai câu thơ để nói về hình ảnh cánh buồm. Vẫn sử dụng lối nói so sánh “ Cánh buồm” như “mảnh hồn làng” thông qua động từ “giương”, cánh buồm trở nên lớn lao, gần gũi với người miền biển, đây cũng là cách so sánh hết sức độc đáo của nhà thơ. “Cánh buồm” là sự vật cụ thể, hữu hình ví với “mảnh hồn làng”, trừu tượng, được cảm nhận bằng tâm tưởng, cánh buồm ra khơi hay người dân chài cũng đang vươn mình bằng tất cả sức mạnh của bản thân để : “rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Cả đoạn thơ thể hiện khí thế hăng say, mạnh mẽ, người ra khơi được hình ảnh chiếc thuyền và cánh buồm tương trợ nên mang niềm vui, niềm hãnh diện, cũng cố căng mình lên để thâu góp gió đủ sức đưa con thuyền ra khơi và mang thắng lợi trở về như mong muốn.
Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên không khí đông vui, hối hả đầy sôi động của cánh buồm đón ghe cá trở về. Người đọc như thực sự được sống trong không khí ấy, được nghe lời cảm tạ chân thành đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn và cá đầy ghe, được nhìn thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không miêu tả công việc đánh bắt cá như thế nào nhưng ta có thể tưởng tượng được đó là những giờ phút lao động không mệt mỏi để đạt được thành quả như mong đợi.
Sau chuyến ra khơi là hình ảnh con thuyền và con người trở về trong ngơi nghỉ:
Có thể nói rằng đây chính là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với lối tả thực, hình ảnh “làn da ngắm rám nắng” hiện lên để lại dấu ấn vô cùng sâu sắc thì ngay câu thơ sau lại tả bằng một cảm nhận rất lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” – Thân hình vạm vỡ của người dân chài thấm đẫm hơi thở của biển cả nồng mặn vị muối của đại dương bao la. Cái độc đáo của câu thơ là gợi cả linh hồn và tầm vóc của con người biển cả.
Hai câu thơ miêu tả về con thuyền nằm im trên bến đỗ cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ không chỉ thấy con thuyền nằm im trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Cũng như dân chài, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe chất muối của đại dương đang thấm trong từng thớ vỏ của nó. Thuyền trở nên có hồn hơn, nó không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã trở thành người bạn của ngư dân.
Không phải người con làng chài thì không thể viết hay như thế, tinh như thế, và cũng chỉ viết được những câu thơ như vậy khi tâm hồn Tế Hanh hoà vào cảnh vật cả hồn mình để lắng nghe. Ở đó là âm thanh của gió rít nhẹ trong ngày mới, là tiếng sóng vỗ triều lên, là tiếng ồn ào của chợ cá và là những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền. Có lẽ, chất mặn mòi kia cũng đã thấm sâu vào da thịt nhà thơ, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành nỗi niềm ám ảnh gợi bâng khuâng kì diệu.
Nét tinh tế, tài hoa của Tế Hanh là ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”… Thơ Tế Hanh là thế giới thật gần gũi, thường ta chỉ thấy một cách lờ mờ, cái thế giới tình cảm ta đã âm thầm trao cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến…”
SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Chiều Tối 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Đón đọc bài cảm nhận về bài thơ Quê Hương khổ 3 sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm quan trọng khi cảm nhận đoạn thơ này.
Quê hương từ lâu đã trở thành cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi tác giả lại có một cái nhìn cũng như cảm nhận khác nhau về quê hương. Nhưng nhắc đến những bài thơ viết về quê hương, không thể không nhắc đến bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh. Bài thơ đã tái hiện hình ảnh quê hương vùng biển với những nét đẹp vô cùng độc đáo. Đặc biệt là khổ thơ thứ ba trong bài, không những miêu tả khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về mà còn thể hiện niềm tự hào và tình yêu quê hương tha thiết.
Ở đoạn thơ thứ hai, Tế Hanh khắc họa khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển cùng tư thế lao động tuyệt đẹp của người dân quê hương. Sau một đêm dài vất vả, đến khổ thơ thứ 3 là khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:
Cảnh ra khơi hứng khởi, sôi nổi, cảnh trở về cũng vô cùng vui tươi, náo nhiệt. Tác giả sử dụng hàng loạt tính từ “ồn ào”, “tấp nập” gợi không khí đông vui, sôi động. Những người ở nhà tấp nập kéo nhau ra đón đoàn thuyền trở về. Họ vui mừng phấn khởi khi trông thấy những con cá tươi ngon thân mình bạc trắng đầy ắp khoang thuyền. Đó là thành quả của một đêm miệt mài buông lướng trên biển.
Họ hân hoan hạnh phúc nhưng vẫn không quên cảm tạ “Trời”. Câu nói “Nhờ ơn trời” vang lên chứa chan bao nhiêu cảm xúc, thể hiện lối sống hiền hòa, chất phác và tấm lòng mộc mạc của người dân nơi vùng biển này. Họ có bản lĩnh, có sức mạnh nhưng họ hiểu được thành quả họ có được phải nhờ cả vào thời tiết, thiên nhiên. Sóng có êm, biển có lặng, không bão giông, thuyền mới thuận lợi ra khơi. Đó là niềm tin đã hình thành từ lâu đời trong cuộc sống của người dân làng chài.
Với tình yêu quê hương và sự gắn bó sâu nặng, Tế Hanh đã tái hiện khung cảnh hết sức chân thực. Người đọc như được sống trong không khí ấy, cảm nhận được những cảm xúc ấy.
Không những thế, dưới ngòi bút của nhà thơ, chúng ta còn thấy được hình ảnh con người hiện lên tuyệt đẹp:
Đã một đêm dài lao động trên biển nhưng ở họ không hề xuất hiện dấu hiệu của sự mệt mỏi. “Làn da ngăm rám nắng” miêu tả làn da đặc trưng của người dân làng chài. Trải qua nhiều mưa nắng dãi dầu, cái mặn mòi của biển đã thấm sâu vào máu thịt, con người nơi đây mạnh mẽ và rắn rỏi.
Bước xuống từ những con thuyền đầy cá, họ giống như chàng Thạch Sanh vùng biển: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. “Vị xa xăm” là hương vị của nắng gió, hương vị trong hơi thở đại dương. Hình ảnh tả thực “làn da ngăm rám nắng” kết hợp cùng hình ảnh lãng mạn “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm” đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp linh hồn lẫn tầm vóc của con người biển cả. Đó là vẻ đẹp của tất cả người lao động.
Bên cạnh hình ảnh con người là những con thuyền. Sau thời gian dài vất vả cùng người dân trên biển nó không giấu diếm vẻ mệt mỏi của mình. Hình ảnh nhân hoá “Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm” giúp người đọc hình dung rõ nét dáng vẻ mỏi mệt của con thuyền. Nó lặng im lắng nghe chất muối của đại dương thấm vào da thịt. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng vô cùng tinh tế. Trong cảm nhận của nhà thơ, nó không phải vật vô tri, vô giác mà sinh động, có hồn, gắn bó sâu sắc với con người và nhịp sống nơi đây.
Không phải bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được tất cả điều này. Vị mặn của biển, hơi thở của cuộc sống làng chài có lẽ đã thấm sâu vào da thịt Tế Hanh. Từ đó tràn vào tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ, trở thành khoảng trời yêu thương kỳ diệu.
Nhà thơ đã sử dụng thành công những biện pháp nghệ thuật đặc sắc như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Giọng thơ mang đầy cảm xúc, nhịp điệu linh hoạt. Qua đó tái hiện khung cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động. Đồng thời gửi gắm nỗi nhớ thương, tự hào và tình yêu quê hương da diết.
Với những thành công về nội dung và nghệ thuật ấy, đoạn thơ thứ 3 của bài thơ “Quê hương” đã đem đến cho người đọc nhiều ấn tượng. Bài thơ cũng trở thành một trong những áng thơ tiêu biểu viết về quê hương, tiêu biểu cho hồn thơ Tế Hanh gần gũi, tinh tế.
Tham khảo văn mẫu 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Tham khảo bài văn cảm nhận về bài thơ Quê Hương của Đỗ Trung Quân với những vần thơ da diết từ lâu đã trở nên quen thuộc với bao thế hệ đọc giả.
Quê hương với mỗi người thật giản dị, thân thương. Yêu quê là yêu con đường đến trường, yêu những mái nhà tranh, yêu cánh đồng lúa chín…Nhà văn Ê-ren-bua đã từng nói: suối chảy vào sông, sông chảy ra biển, tình yêu tổ quốc bắt nguồn từ lòng yêu với những thứ thân thuộc quanh mình. Tình yêu đất nước bao giờ cũng bắt nguồn từ tình yêu quê chân thành, giản dị như thế. Có những so sánh hình ảnh quê hương thật gần gũi.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân chắc hẳn yêu quê lắm mới có những hình ảnh so sánh đẹp và dễ đi vào lòng người đến thế. Đọc câu thơ nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra, quê hương sao gần quá. Nó ở trong tuổi thơ, trong câu chuyên bà kể, trong lời hát mẹ ru, trong trái cây dịu mát. Quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con đường đi học. Còn gì gần gũi hơn thế với mỗi người dân đất Việt.
Quê hương là vô hình, khó định nghĩa và khó có thể gợi ra được cụ thể, rõ ràng. Thế nhưng nhà thơ đã đưa ra cho ta một định nghĩa thật giản dị, biến cái vô hình thành hữu hình. Quê hương có thể nhìn thấy, có thể cầm nắm, có thể thưởng thức được mỗi ngày. Với chùm khế ngọt con người cảm nhận quê hương đầy đủ nhất bằng mọi giác quan.
Tuổi thơ ai cũng trải qua những năm tháng tới trường. Con đường đi học đã trở thành người bạn tri kỉ. Hình ảnh “rợp bướm vàng bay” gợi nên cho ta những gì thân thương và trong sáng nhất của tuổi học trò. Quê hương là thế đó. Nhắm mắt lại ta như thấy quê hương đã ở đó rồi, ở ngay bên trong trái tim mỗi con người.
Khi ta còn nhỏ, những vần thơ về quê hương đã luôn theo ta qua lời ngâm của bà, của mẹ. Quê hương theo ta khi ta chơi, khi ta cười, khi ta ăn, khi ta ngủ. Quê hương là gì? Xưa nay chưa có ai định nghĩa nổi. Nhưng với một phong cách rất Việt Nam, Đỗ Trung Quân đã khiến những người con xa quê phải bật khóc.
“Quê hương” hai từ “thiêng liêng” nhất của một đời người. Nó là mảnh đất chào đón sự khởi đầu của cuộc đời, một sinh linh. Con người ta không thể có hai quê hương cũng như không thể có hai người mẹ. Mảnh đất quê hương yêu dấu mà nơi ấy cho ta hạt gạo ta ăn, ngụm nước ta uóng, là nơi đã đón nhận những bước chân chập chững đầu đời. Quê hương ấm áp, ngọt ngào như dòng sữa mẹ, nuôi lớn ta từng ngày, từng ngày. Với Đỗ Trung Quân “Quê hương” thân thương là thế, yêu dấu là thế.
Từ “chỉ một” như muốn nhắc nhở chúng ta, quê hương là duy nhất, nếu ai mà không nhớ quê hương, người đó sẽ không thể lớn nổi thành người”. “không lớn nổi không phải là cơ thể không lớn lên, không phải là con người ta cứ bé mãi, mà “không lớn nổi” có nghĩa là không trưởng thành một con người thật sự. Người mà không nhớ về cội nguồn, gốc rễ, ăn cháo đá bát thì người đó không có đạo đức, không xứng đáng là một con người.
Với tất cả chúng ta, quê hương là một thứ gì đó gần gũi đến kỳ lạ. Như khi ta ăn một trái lê, ngửi một bông hoa, vị thơm ngọt của nó gợi nhắc ta về với quê hương; nơi có những cánh đồng trải dài xa mãi, những bãi cỏ xanh thơm mùi thảo mộc, những chiều hoàng hôn bình yên, ta ngồi nhìn gió hát. Dù có đi đâu xa, hơi thở của quê hương vẫn bên ta, để ta luôn có một góc nhỏ bình yên với tâm hồn.
Khi ta lớn lên, ta ra đi, bon chen, lặn lội trên đường đời. Bao nhiêu mệt mỏi, bao nhiêu tủi hờn, ấm ức, ta vẫn cố chịu, để rồi khi trở về nhìn thấy rặng tre đầu làng, con đê trước sông và nhận ra mái nhà thân quen của ta đâu đó trong xóm, ta lại bật khóc, tiếng khóc vỡ òa ra vì để trú hết tủi hờn, đau buồn, tiếng khóc vờ vì một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Ôi ! Sao mà yêu thương thế!
Về với quê hương, như về với kí ức, như về với bản chất con người thuần túy, quê hương cho ta sự yên ả, tĩnh lặng, sự bình dị, thanh tịnh. Ta như điên cuồng muốn ôm lấy quê hương mà hôn, mà yêu. Ta như muốn chạm tay vuốt ve tất cả mọi thứ, rồi hét lên rằng “Quê hương ơi! Con đã về”. Ta chỉ muốn nhìn hết, thu hết mọi sự yêu thương ấy để vào trong tim, cho nó cùng sống, cùng chết với ta. Như vậy ta sẽ chẳng còn cô đơn, chẳng con thương nhớ nữa.
Mọi sự vật nơi đây đều có một linh hồn riêng biệt. Linh hồn ấy mãi mãi chẳng đổi thay. Mọi linh hồn ấy đều sẵn sàng dang tay chào đón ta trở về. Cái đụn rơm này, cái cây đa già này, cả cái mùi ẩm mốc của đất quê này… Tất cả, tất cả đều vây lấy ta, trò chuyện với ta, hơn hết chúng đã giúp ta chữa lành mọi vết thương lòng.
Với ta, quê hương luôn gắn với vòng tay của bà, của mẹ, là nụ hôn, là giọt nước mắt. Quê hương thơm mùi canh cà chua, tròn như quả cà, xanh như màu rau muống luộc. Đâu phải vì chưa từng ăn những thứ đó, mà sao giờ đây, nó lại ngon đến thế!. Quê hương sôi nổi và mộc mạc trong những câu chuyện vui rôm rả của làng xóm láng giếng mỗi buổi tối trăng sáng, là nụ cười ngây thơ đến mê hồn của lũ trẻ con. Ta muốn yêu, yêu hết tất cả mọi thứ của mảnh đất này.
Quê hương là một cái gì đó như ràng buộc, như một thứ kỳ diệu khiến ngày ta phải ra đi, tiến một bước nhưng muốn lùi hai bước. Phải ra bến xe nhưng lại chạy ra sông ngồi ngẩn ngơ một lúc, ngắm nhìn dòng suối bạc lấp lánh đến chói mắt khi mặt trời chiếu xuống. Quê hương ơi là quê hương!
Lại một lần nữa – ta khóc – ngày ta phải ra đi – đến giờ, ta còn quyến luyến. Kì lạ sao ta đi chậm như thế, cứ hay ngoảnh lại như thế, cây đa đầu làng đã xã mờ lắm rồi mà ta vẫn ngờ nó chỉ mới kia thôi. Trong lòng bỗng thấy bâng khuâng, xao xuyến lạ! Ta ngạc nhiên vì thấy sao lá vẫn xanh, nắng vẫn vàng ươm trùm lên cảnh vật.
Thật thế, quê hương như máu thịt ta, kể từ khi lọt lòng, ta đã trao cho nó nửa linh hồn của mình vì vậy đi đâu cũng nhớ, cũng thương.
Quê hương luôn hiện ra trong làn nước mắt nhớ nhung trong các đêm:
Quê hương vẫn mãi mãi yêu thương như thế! Như thế!
Giới thiệu đến bạn 🌟 Quê Hương Đỗ Trung Quân 🌟 Lời Bài Thơ, Phân Tích, Văn Mẫu Tuyển Chọn
Bất cứ một người Việt Nam nào cũng từng nghe và thuộc bài thơ Quê hương của Đỗ Trung Quân. Bài thơ đã được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc với ca từ không hề thay đổi, bằng giai điệu mượt mà, trữ tình, đằm thắm. Ai đã từng nghe một lần, không dễ gì quên được.
Ba khổ thơ đầu, với cấu trúc A là B, nhà thơ đưa ra một định nghĩa về quê hương theo cách của riêng mình:
Nhà thơ đã sử dụng biện pháp lặp từ ngữ, lặp cấu trúc ngữ pháp câu, biện pháp liệt kê, cấu trúc thơ vắt dòng rất đặc sắc. Khung cảnh làng quê trên mọi miền Tổ quốc Việt Nam hiện lên thân thương, giản dị mà xúc động lòng người. Những cặp câu thơ dần hiện lên như những thước phim quay chậm, cảnh vật có gần có xa, có mờ có tỏ, có lớn có nhỏ. Nhịp thơ đều đặn, nhịp nhàng, gần như cả bài thơ chỉ có một nhịp 2/4.
Cả ba khổ thơ với những câu thơ cùng một nhịp, kết cấu giống nhau nhưng vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát vô cùng. Phải chăng, vẻ đẹp của những hình ảnh thơ đã làm cho người đọc quên đi hình thức bên ngoài của ngôn ngữ ? Nhà thơ đã biến cái không thể thành cái có thể, và được độc giả nồng nhiệt đón nhận bằng một sự đồng cảm rất tự nhiên. Quê hương là một khái niệm trừu tượng, nhà thơ đã cụ thể hoá nó bằng những hình ảnh sống động.
Quê hương không thể tương đương với chùm khế ngọt, đường đi học rợp bướm vàng bay, con diều biếc thả trên cánh đồng, con đò nhỏ khua nước ven sông, cầu tre nhỏ, nón lá nghiêng che, đêm trăng tỏ, hoa cau rụng trắng ngoài hè… nhưng tất cả những điều đó lại làm nên một hình ảnh quê hương đẹp đẽ, lung linh, trọn vẹn và thiêng liêng. Người xưa nói: hãy xúc động hồn thơ để ngọn bút có thần. Với lòng yêu quê hương thiết tha, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh quê hương mang hồn quê, cảnh quê, người quê bằng một ngọn bút có thần…
“Quê hương là chùm khế ngọt” – chùm khế ngọt nhỏ bé, ngọt mát, êm dịu, một thứ quà quê thanh đạm, bình dị, quá đỗi bình dị mà sao day dứt và ám ảnh? Có lẽ vị ngọt thanh của khế làm mát dịu lòng ta, trái khế ngọt mang hương vị của ca dao cổ tích, dư vị thắm thiết của tình nghĩa con người. Đấy là quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi nhũng người thân yêu của ta ở đó, nơi ta đã đi qua thời thơ dại với con đường đến trường rợp bướm vàng bay.
Hình ảnh con bướm vàng cũng là một hình ảnh thực và đặc sắc của làng quê mà ở thành phố không bao giờ thấy được. Nhà thơ Giang Nam nhớ về tuổi thơ “Có những ngày trốn học đuổi bướm cạnh cầu ao – Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc”, nhà thơ Huy Cận nhớ “Một buổi trưa không biết ở thời nào – Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao – Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ”, và nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa viết bài thơ đầu tiên của mình là bài Con bướm vàng. Hình ảnh con đường đi học “rợp bướm vàng bay” đẹp như một giấc mơ, đẹp như trong truyện cổ tích vậy.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh so sánh mang ý nghĩa sâu sắc. Quê hương được so sánh với mẹ vì đó là nơi ta được sinh ra, được nuôi dưỡng lớn khôn, giống như người mẹ đã sinh thành nuôi ta khôn lớn trưởng thành. Vì vậy, nếu ai không yêu quê hương, không nhớ quê hương mình thì không trở thành một người tốt được. Lời thơ nhắc nhở mỗi chúng ta hãy luôn sống và làm việc có ích, hãy biết yêu quê hương xứ sở, vì quê hương là mẹ và mẹ chính là quê hương, vì “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở – Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).
Xem nhiều hơn 🌟 Nghị Luận Về Bài Thơ Nói Với Con 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay
Thơ về quê hương đất nước thường chất chứa rất nhiều những cảm xúc, chiếm được tình cảm của bạn đọc. Trong số đó, tôi ấn tượng với bài thơ “Quê hương” của Nguyễn Đình Huân bởi sự dung dị, ngôn từ mộc mạc, bộc lộ tình yêu quê hương chân thành.
Với thể thơ lục bát truyền thống có âm điệu êm đềm, tác giả đã làm sống dậy tình cảm dạt dào về quê hương qua hàng loạt kỷ niệm hồi còn thơ bé. Điều đó thể hiện rõ ngay từ những câu mở đầu:
Tác giả đưa ra liên tiếp những khái niệm về quê hương thật cụ thể, và gần gũi – với cái nhìn hồn nhiên của con trẻ. Theo đó, “Quê hương là”: tiếng ve kêu, lời ru của bà, của mẹ, là dòng sông uốn lượn, tiếng sáo diều bay bổng, cánh cò trắng nổi bật trên triền đê xanh cỏ. Quê hương ngày bé sao mà gắn bó, thân thương đến thế? Đó cũng là dấu ấn kỷ niệm của hầu hết những ai đã từng sống ở chốn thôn quê, ruộng đồng. Chưa hết, vào những buổi chợ phiên, quê hương là nỗi niềm thấp thỏm chờ mong mẹ đi chợ mua về quà bánh đa.
Hay nhất trong bài là những câu:
Chỉ hai câu thơ, cả một không gian rộng lớn về quê hương được mở ra sống động với bề rộng là “cánh đồng vàng” mênh mang lúa chín; chiều cao bầu trời thoảng thơm hương lúa được tái hiện. Hình ảnh “cánh đồng vàng” vừa gợi tả màu của lúa chín vừa là ẩn dụ để chỉ giá trị to lớn, thái độ trân quý đồng đất quê hương “tấc đất tấc vàng”. Không yêu quý quê hương, không có cách nhìn và lối viết ấy.
Trong bài thơ, ngôn từ thuần Việt dung dị, nghệ thuật liệt kê được tác giả dụng thành công xuất sắc nên rất nhiều hình ảnh gợi nhớ về quê hương xuất hiện nhưng không đơn điệu, không nhàm chán. Trái lại, tác giả đã chọn lựa được những chi tiết nghệ thuật đặc trưng chỉ vùng thôn quê mới có như: tiếng gà gáy lúc bình minh, cánh đồng lúa chín, dáng mẹ áo nâu liêu xiêu đi về trong bóng chiều chạng vạng.
Chưa hết, quê hương còn là những cơn mưa, hàng dừa soi bóng ven sông nước… Tất cả đều gắn bó thân thương vô cùng. Khép lại bài thơ là hai câu: “Quê hương ta đó là nơi/ Chôn rau cắt rốn người ơi nhớ về” vừa để khẳng định tình cảm sắt son vừa như nhắn gửi tha thiết tới mỗi chúng ta hãy luôn nhớ về quê hương.
Bài thơ ngôn từ đôi chỗ còn mộc mạc nhưng thể hiện rõ tình yêu quê hương của chủ thể trữ tình. Tình yêu quê chính là động lực, là bệ phóng để mỗi người người chúng ta được chắp cánh để bay cao, bay xa vào bầu trời cuộc sống.
Đón đọc tuyển tập 💧 Bình Giảng Đất Nước 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Đón đọc bài văn cảm nhận về bài thơ Quê Hương của Giang Nam, một trong những tác phẩm nổi tiếng không thể bỏ qua viết về đề tài quê hương.
Quê hương, chỉ hai từ thôi nhưng vô cùng thân thương đến lạ. Quê hương, nơi mình sinh ra, nơi mình lớn lên, nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ. Khi nhắc đến quê hương ai cũng cảm thấy tự hào, đó là một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao cả.
Và với bài thơ Quê hương của nhà thơ Giang Nam cũng thế. Quê hương, dòng chảy bất tận của ký ức, quê hương là nơi ta tìm về sau những phong ba của cuộc đời.
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về tuổi thơ, là niềm thương nhớ và yêu quê hương từ thuở “cắp sách tới trường” từ thuở “chăn trâu cắt cỏ”. Không gian thơ mở ra với bàng bạc nỗi nhớ về thuở ấu thơ, với những trò nghịch ngợm của trẻ thơ đó là “trốn học”, “đuổi bướm…Những vần thơ mộc mạc, giản dị càng đọc càng thấm thía về một quê hương tuổi thơ trong kỉ niệm.
Dòng thời gian trôi mãi, tuổi thơ rồi lớn lên, đất nước kêu gọi, cậu bé ngày ấy nay đã trưởng thành, lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Thật bất ngờ, “cô bé nhà bên” ngày xưa ấy cũng trở thành đồng chí:
Tình bạn trẻ thơ giờ đã trưởng thành thêm một bậc, sự trưởng thành này phù hợp với hoàn cảnh xã hội chung lúc bấy giờ, như một điều tất yếu.
Chính vì có được nền tảng là tình bạn từ những ngày ấu thơ nên khi bất chợt gặp nhau trên giữa đường hành quân, dẫu “mưa đầy trời” nhưng chàng trai vẫn thấy “lòng tôi ấm mãi” bởi nụ cười khúc khích và cảm xúc “thương thương quá đi thôi” đan xen giữa quá khứ và hiện tại.
Chiến tranh, kẻ thù xâm lược dẫu tàn ác cũng không xóa bỏ được nét trong trẻo trong tâm hồn của những chàng trai cô gái một thời. Họ vượt lên trên sự tàn ác của kẻ thù bằng chính sự thiện lương, trong trẻo được nuôi dưỡng bởi chiều sâu văn hóa, tình người của dân tộc. Điều này Nguyễn Đình Thi đã từng thể hiện:
Bởi thế mà dù trải qua bao thăng trầm, bao súng đạn, bao chiến trường, ngày gặp lại, cô gái ngày xưa ấy vẫn
Điệu cười khúc khích như điệp khúc, như từng đợt sóng lòng trùng điệp mà đợt sau cao hơn đợt trước; để rồi chàng trai không cầm lòng được mà:
Tình yêu thời chiến đến thật nhẹ nhàng như một điều hiển nhiên. Tình yêu đôi lứa ấy được đặt trên nền tảng vững chắc của tình bạn thuở ấu thơ và tình đồng chí, cùng chung lí tưởng của khi trưởng thành.
Chính điều này làm cho tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu quê hương đất nước, cái riêng đã hòa vào cái chung khiến cho tình yêu chung cho quê hương thêm sâu sắc mà cũng khiến cho tình cảm riêng càng trở nên rộng lớn, bền vững hơn.
Ít ai biết bài thơ có một nguyên mẫu trong đời thực: “cô bé nhà bên” chính là người vợ, người bạn đời của tác giả. Hoàn cảnh bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh khá đặt biệt:
Năm 1960, nhà thơ nhận được tin vợ và con mình bị giặc giết hại trong nhà tù Phú Lợi; cảm xúc cuộn lên chất ngất, ngay trong đêm bài thơ được ra đời, những câu thơ cứ ùa về cùng với nỗi đau không thể kìm nén:
Nỗi đau xót đến tê tái, đến chết lịm người khi nghe tin “em” bị “giặc bắn em rôi quăng mất xác” tình cảm càng bền vững, càng nên thơ khi mất càng gây đau đớn. Từ cô bạn ấu thơ, rồi đồng đội đồng chí, đến người yêu, giờ “giặc bắn em rồi quăng mất xác” càng đau đớn, càng xót xa và tố cáo tội ác của giặc xâm lược.
Tình riêng giờ hòa vào tình chung, không chỉ là ở nghĩa biểu tượng mà ở nghĩa thực của nó. Quê hương không chỉ là khái niệm chung chung mà gắn với người con gái ta yêu, là một phần của cuộc đời, một phần không thể tách rời của thân thể.
Bài thơ Quê hương của Nhà thơ Giang Nam dù đã trải qua bao thăng trầm, biến cố của thời đại. Nhưng với bất cứ ai khi đọc lên đều không khỏi cảm thấy xót xa, bùi ngùi, đau đớn khi mất đi người yêu, mất đi ruột thịt của mình. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.
Tiếp tục đón đọc 🌳 Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam 🌳 Phân Tích,Đọc Hiểu
Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Bài Thơ Với Thông Điệp Về Khát Vọng Tình Yêu Đặc Biệt Được Thể Hiện Qua Khổ Thơ 5 Và 6
Dàn Ý Khổ 5 6 Bài Sóng chia sẻ những nội dung cơ bản bám xác theo chương trình môn ngữ văn phổ thông.
1. Mở bài:
Giới thiệu qua tác giả Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ.
Thơ Xuân Quỳnh là một hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Đặc điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: Vừa khát khao một tình yêu lý tưởng, vừa hướng tới hạnh phúc thiết thực của đời thường.
Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một hồn thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên. Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.
2. Thân bài
Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “Sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng: Sóng.
Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
“Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận.
Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).
Khổ 5: Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu ở đây luôn soi vào sóng để diễn tả cái sâu sắc, bao la của nỗi nhớ trong lòng mình, nó choán đầy cả tầng sâu và bề rộng, nó chiếm lĩnh trọn cả thời gian, cả ngày lẫn đêm:
3. Kết bài
Khẳng định hình tượng sóng đã làm cho bài thơ thành công.
Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.
Ngoài Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng, tại chúng tôi còn có 🦋 Phân Tích Bài Thơ Ngắm Trăng 🦋 hay và ý nghĩa!
Cảm Nhận Về Khổ 5 6 Bài Sóng Ngắn là cả điệu hát tâm hồn mang nỗi nhớ trong tình yêu trong trái tim người phụ nữ.
Cảm xúc chính là điệu hồn của bài thơ, vậy nên “thơ hay là thơ chín đỏ cảm xúc” (Xuân Diệu). Ở hai khổ thơ năm và sáu, Xuân Quỳnh đã phổ cả điệu hát của tâm hồn mình vào đó, rồi mang nỗi nhớ trong tình yêu lên một tầng cảm xúc mới. Đồng thời, cũng khẳng định nét đẹp tâm hồn bao đời nay của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
Nỗi nhớ là cung bậc cảm xúc muôn thuở trong tình yêu, nhưng nỗi nhớ ấy qua màng lọc tâm hồn của mỗi nhà thơ lại được tái hiện một cách riêng, độc đáo và mang đậm phong cách của người nghệ sĩ ấy.
Ca dao mang nỗi nhớ vào bằng cách diễn đạt giản dị, giống như tâm hồn mộc mạc của người dân xưa “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”?
Cái ngẩn ngơ ấy, đến thơ trung đại được diễn đạt bằng những hình ảnh hàm súc, cô đọng hơn, nỗi nhớ làm hao huyết cả thời gian, mà cũng như đang giằng xé con người trong niềm cô đơn đợi chờ mòn mỏi “ba thu dọn lại một ngày dài ghê”.
Đến thơ mới, Nguyễn Bính mang nỗi niềm tương tư ấy của mình giăng mắc khắp các miền không gian, nỗi nhớ của con người chuyển dịch thành không gian nhớ nhau, cái nhớ trong thơ Nguyễn mới thật đậm chất của một nhà thơ chân quê.
Đến Xuân Quỳnh nỗi nhớ vẫn là cảm xúc da diết, bổi hồi bồi hồi ấy trong tình yêu, nhưng được biểu đạt qua hình tượng sóng nên càng mang sức gợi mới mẻ, hấp dẫn, hiện đại. Con sóng dào dạt, đại dương mênh mông, vì thế mà vừa gợi nỗi nhớ, vừa gợi cơn khát mong cồn xé của trái tim.
Nỗi nhớ ấy không được ngoại hiện, nhưng lại nhấn chìm thời gian vượt mọi không gian, xâm chiếm cả trong tiềm thức ý thức, vô thức, để đạt đến đường biên của khả giải, bất khả giải.
Tưởng chừng như trái tim yêu tha thiết mà cũng mãnh liệt đấy đang tự hát lên điệu hồn mình, đang mang nỗi nhớ lấp đầy pháp trường trắng cô đơn cô độc ấy. Nỗi nhớ một lần nữa xuất hiện, và đến Xuân Quỳnh thực sự đã mang một sắc thái biểu đạt mới.
Thế giới trong trái tim em, chỉ có một phương anh duy nhất. lời khẳng định chắc nịch ấy của một trái tim yêu vừa tha thiết mà cũng thật mãnh liệt biết bao. Đó chẳng phải là tấm lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam muôn thuở trong tình yêu ư?
Do đó, ta thấy ở đây, Xuân Quỳnh đã đi vào hồn mình, tự hát điệu hồn mình, nhưng lại chạm đến hồn muôn người, muôn nẻo, khơi gợi sự đồng cảm mãnh liệt trong tâm hồn người đọc.
Thơ Xuân Quỳnh xưa nay vẫn vậy, vẫn nhỏ nhẹ, khiêm nhường, để lắng lòng cùng ta về những tâm tình đã cũ, về những câu chuyện tưởng như đã phai màu trong cuộc sống hiện tại, nhưng đó mới chính là những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại hướng đến, do đó mà có sức trường cửu mãnh liệt trong tâm hồn người đọc.
Cùng với Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng, gửi đến bạn 🍃 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Từ Ấy 🍃 hay nhất.
Cảm Nhận Khổ 5 6 7 Bài Thơ Sóng Hay với một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người.
Từ xưa đến nay, tình yêu luôn là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một cách thể hiện khác nhau. Nó có thể đậm chất triết lý như trong thơ Tagore hay tha thiết, cháy bỏng như thơ của Xuân Diệu.
Với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tình yêu đầy những âu lo, trăn trở và khát khao hạnh phúc đời thường của người phụ nữ…
Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết… thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu.
Vì thế Lê Quý Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”. Có thể nói, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ nét điều đó. Tác phẩm này được viết vào năm 1967, khi tác giả có chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền.
Đứng trước những con sóng nối tiếp, vô tận của biển cả, Xuân Quỳnh đã nhận thấy sự đồng điệu giữa những cung bậc, trạng thái của sóng với cung bậc tình cảm, khát vọng trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu.
Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” có khi tách biệt, có khi thống nhất, có khi lại hòa vào làm một để diễn tả vẻ đẹp trong tình yêu của tâm hồn người phụ nữ.
Đồng thời, Xuân Quỳnh đã đem đến một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người trong những năm tháng chống Mỹ đầy khốc liệt.
Khổ thơ thứ năm là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong “Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của tác phẩm trong đó bốn câu thơ đầu là nỗi nhớ bờ âm ỉ, tha thiết của con sóng:
Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ.
Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ, những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương “bờ”.
Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển.
Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước” – “dưới lòng sâu”, “ngày” – “đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng.
Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình.
Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”.
Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Không còn là thứ vô tri, vô giác nữa mà con sóng ấy từ lâu đã mang trong mình cả một tâm hồn, một tâm hồn biết “nhớ”, biết “không ngủ được” vì nỗi trăn trở.
Đọc những câu thơ này, người ta không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng giữa biển cả với nỗi nhớ bao trùm cả không gian, kéo dài theo thời gian.
Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin, trực tiếp:
Nếu người phụ nữ trước khi chỉ dám bày tỏ nỗi nhớ một cách gián tiếp thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản mà chủ động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Ở đây Xuân Quỳnh đã dùng từ “lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu.
Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo.
Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt mới có thể có đủ can đảm để khẳng định được tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy.
Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu tự do, hiện đại. Để rồi nỗi nhớ ấy không chỉ còn là ở cảm xúc hay ý thức mà nó đã trở thành nỗi nhớ của tiềm thức: “Cả trong mơ còn thức”. Nếu chỉ hiểu theo nhận thức của lí trí thông thường thì khi mơ là đang ngủ mà trạng thái ngủ là hoàn toàn đối lập với trạng thái thức.
Cho nên “cả trong mơ còn thức” là điều rất vô lý, trái với nhận thức thông thường. Tuy vậy nhưng câu thơ vẫn được ngợi ca và đón nhận. Tại sao lại như vậy? Có lẽ là bởi nó được lý giải bởi quy luật của tình yêu. Trong tình yêu, mọi thứ vô lý đều có thể trở thành hợp lý và ở đây cũng vậy.
Có lẽ chỉ người đã và đang sống trong nỗi nhớ của tình yêu mới có thể cảm nhận trọn vẹn những cung bậc cảm xúc ấy. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc mà mới mẻ về tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ.
Đây cũng là trạng thái tình cảm tiêu biểu cho những ai đã, đang và sẽ yêu. Và đằng sau nỗi nhớ “anh” tha thiết ấy là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ cho một tình yêu sâu sắc và cao đẹp.
Ở khổ thơ thứ sáu, ta lại bắt gặp một vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu: đó là lòng thủy chung, son sắt.
Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn tìm tình yêu mới trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng một dạ với người mình yêu:
Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của Xuân Quỳnh thật thú vị:
Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy?
Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện.
Phải chăng, nhà thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật luôn đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt trong tình yêu. Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và chân thành của người phụ nữ khi yêu.
Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.
Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:
Lời thơ đọc lên thấy tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng chỉ nghe thấy tiếng lòng của em.
Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh.
Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất – phương anh. Dấu “-” đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ.
Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời.
Tấm lòng thủy chung trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.
Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”.
Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc.
Hãy nhìn vào hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn. Tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:
Ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp, nhân hóa, ẩn dụ, sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách.
Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:
Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng – cuộc đời con người thì hữu hạn
Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu
“Sóng” là một tác phẩm thành công vang dội của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ tất cả những cung bậc trong tình yêu, thể hiện tình cảm son sắt, thủy chung, tha thiết, cao thượng cùng bao nỗi nhớ thương, niềm tin yêu vào tình yêu cao cả không chấp nhận một tình yêu tầm thường và nhỏ hẹp. Khát vọng một tình yêu cao đẹp thủy chung.
Phải có một tâm hồn thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp và lung linh đến vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.
SCR.VN tặng bạn 💐 Phân Tích Bài Thơ Phú Sông Bạch Đằng 💐 giúp nuôi dưỡng những cảm xúc chân thành!
Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng Ngắn Nhất với những băn khoăn về tình yêu và những trăn trở lo âu của tâm hồn người phụ nữ luôn khát khao yêu đương.
Xuân Quỳnh thuộc một số những nhà thơ lớp đầu tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Nhận xét về ngôn ngữ thơ của nữ sĩ, giáo sư Chu Văn Sơn cho rằng: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi giông bão của cuộc đời…
Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa không ngừng của chúng”. Và “Sóng” là một bài thơ hay, đã làm rõ những điểm sáng đó trong phong cách thơ Xuân Quỳnh, nhất là hai khổ thơ năm và sáu.
Dù không thể cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu nhưng Xuân Quỳnh đã phát hiện ra một tín hiệu cơ bản của tình yêu, nhất là khi những tâm hồn yêu phải xa cách: Tình yêu luôn đồng hành cùng nỗi nhớ, và tương tư là căn bệnh phổ biến của tất cả những người đang yêu. Có nỗi nhớ tha thiết mà lặng thầm trong ca dao:
Có nỗi nhớ được đo bằng không gian:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Có nỗi nhớ được đo bằng thời gian:
Ở đây để diễn tả những cảm xúc nhung nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh tiếp tục mượn hình tượng sóng:
Hình ảnh con sóng được điệp lại ba lần trong bốn dòng thơ giống nhau như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ, như đoạn điệp khúc da diết của một bản tình ca. Nghệ thuật đối đã đặt sóng vào những không gian, thời gian khác nhau.
Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu, dù ngày hay đêm, con sóng luôn mang trong mình nỗi nhớ bờ da diết.
Đó cũng là ẩn dụ về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong trái tim người phụ nữ đang yêu, sóng nhớ bờ như em nhớ anh “ngày đêm không ngủ được”, một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, đầy ắp theo thời gian, một nỗi nhớ cồn cào da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng triền miên vô hồi vô hạn.
Và phải chăng, những rung cảm mãnh liệt của trái tim đã buộc lời thơ phải dài thêm ra để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ:
Đây là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ bởi nó kéo dài thêm hai dòng thơ. Cảm xúc nhớ thương trào dâng mãnh liệt đã làm ý thơ bị xô đẩy, khuôn khổ thơ phải lung lay. Sự xuất hiện của khổ thơ đặc biệt này đã tạo nên một liên tưởng độc đáo: cả bài thơ là con sóng lớn, khổ thứ năm là đỉnh sóng và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc.
Mượn sóng để diễn tả nỗi nhớ đã là sâu sắc và mãnh liệt lắm nhưng với Xuân Quỳnh, điều đó dường như là chưa đủ, tác giả đã để cho nhân vật trữ tình trực tiếp đứng ra bộc bạch nỗi lòng mình.
Nếu nỗi sóng nhớ bờ còn phân biệt ngày đêm thì nỗi em nhớ anh đã phá vỡ mọi giới hạn thời gian. Nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn trong cả tiềm thức, thậm chí có cảm giác nếu còn có một cõi nào nữa có thể tới được, Xuân Quỳnh sẽ tìm tới để được sống trọn vẹn với tình yêu. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây có gì thật gần với ca dao:
Tác giả dân gian mượn “khăn, đèn, mắt” để diễn tả nỗi nhớ nhung khắc khoải của người con gái đang yêu, và cuối cùng không cần một ẩn dụ, hoán dụ nào nữa, chính em đã trực tiếp bộc bạch nỗi lo âu tình duyên hạnh phúc.
Như vậy tứ thơ của Xuân Quỳnh không mới nhưng niềm khát khao phá vỡ mọi giới hạn để mở rộng chiều kích, biên độ của cuộc sống và tình yêu thì thực sự là táo bạo hiện đại.
Quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh rất mới mẻ nhưng vẫn có gốc rễ rất sâu của đạo lý truyền thống:
Dưới hình thức nói ngược, những câu thơ trên như thoáng qua một chút thách thức. Thông thường người ta nói “ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam”, Xuân Quỳnh nói ngược lại với hàm ý sâu xa: Dù cuộc đời có đảo điên, dù vật đổi sao rời, dù xuôi hóa ngược, dù cho ở đâu, em như kim chỉ nam, em luôn hướng về anh – “một phương”.
Xuân Quỳnh rất hiếm khi quyết liệt trong thơ. Đây có lẽ là lần nhà thơ tỏ ra quyết liệt nhất là để bảo vệ tình yêu chung thủy. Nữ sĩ luôn biết vun đắp chắt chiu để bảo vệ hạnh phúc đời thường. Nhà thơ chưa bao giờ kiêu sa để triết lý về tình yêu.
Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của thơ ca. Trong tình yêu, con người luôn có nhu cầu được chia sẻ, giãi bày. Có thể nói, trong bài thơ này, với “Sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm thấy một hình tượng nghệ thuật độc đáo, phù hợp để nói lên một cách đầy đủ và chân thật những biểu hiện đa dạng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Tiếp tục với Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng, tặng bạn trọn bộ 😁 Nghị Luận Về Bài Thơ Tỏ Lòng 😁.
Khám phá thêm Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng Dàn Ý để nắm vững những kiến thức được hệ thống hoá và đầy đủ nhất.
1. Mở bài
Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ hay về đề tài tình yêu đôi lứa, nỗi nhớ da diết và chung thủy một lòng trong tình yêu thể hiện rất đậm nét trong khổ 5 6 của bài thơ. Khổ 5 6 cũng là đoạn hay và đặc sắc nhất trong bài thơ Sóng.
2. Thân bài
a. Nỗi nhớ nhung da diết trong tình yêu
– Trong khổ 5 tập trung vào nỗi nhớ trong tình yêu của chính tác giả. Sóng dù “dưới lòng sâu” hay con sóng “trên mặt nước” đều có chung một nỗi nhớ đó là “nhớ bờ”.
– Sóng hiện thân con gái khi yêu vô cùng mãnh liệt, nhớ nhung người yêu tựa như những con sóng liên tiếp đang xô vào bờ.
– Người con gái phải yêu thương, nhớ nhung nhiều lắm mới thể hiện cảm xúc “Ôi con sóng nhớ bờ”.
– Nỗi nhớ đó thường trực cả ngày lẫn đêm, xâm chiếm tâm trí người con gái đến cả khi chìm vào giấc mơ.
b. Sự thủy chung trong tình yêu
– Con sóng dù có xuôi về phương Bắc hay phương Nam cách xa, trắc trở về địa lý nhưng có điểm chung đều hướng vào bờ.
– Hình ảnh sóng vỗ vào bờ tựa như người con gái vượt qua nhiều khó khăn, trắc trở để hướng đến tình yêu, một lòng thủy chung sắc son.
– Thủy chung là đức tính quý báu của người con gái Việt Nam và nhà thơ Xuân Quỳnh nguyện một lòng chung thủy suốt đời.
– Chính sự thủy chung sẽ giúp người con gái vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đến với tình yêu đích thức.
3. Kết bài
Cảm nhận của bản thân về khổ thơ 5 và 6 của bài Sóng.
Gợi ý cho bạn những nội dung đặc sắc có trong bài viết chọn lọc 🌹 Cảm Nhận Về Bài Thơ Vội Vàng 🌹
Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng Hay Nhất để thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo và một hồn thơ đầy táo bạo của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo. Những sáng tác của nhà thơ vừa mang nét mạnh mẽ, táo bạo lại vừa đằm thắm, thiết tha.
Xuân Quỳnh đã đóng góp cho nền thơ Việt Nam rất nhiều tập thơ hay và ý nghĩa. Trong đó phải kể đến các tập thơ: Hoa dọc chiến hào (1968), Sân ga chiều em đi (1984)… Bài thơ “Sóng” là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất.
“Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967 trong những ngày kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ nhằm bày tỏ nỗi nhớ nhung và khát vọng trong tình yêu của người phụ nữ. Đó cũng là những tình cảm đẹp đẽ nhằm trao tặng cho người mình yêu. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất trong hai khổ thơ năm và sáu của bài thơ:
Nói về tình yêu có rất nhiều nhà thơ lấy những hình ảnh khác nhau để biểu trưng cho thứ tình cảm ấy và Xuân Quỳnh đã lựa chọn hình tượng “sóng” để biểu thị cho tình yêu xuyên suốt trong bài thơ. Sóng là hiện thân cho tình yêu, cho người con gái đang yêu. Sóng cũng mang đến nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc.
Hình tượng sóng trong hiện thực mà chúng ta thường thấy nó cũng như vậy, có rất nhiều những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau như: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Nhờ vào những liên tưởng về hình tượng con sóng mà chúng ta thấy được những đặc trưng của tình yêu đôi lứa mà được biểu hiện chủ yếu bằng nỗi nhớ:
Bằng việc lặp lại hai lần từ “con sóng” và đi kèm với nó là những vị trí khác nhau. “Sóng trên mặt nước” là con sóng ở bề nổi bên trên mà người ta có thể dễ dàng thấy được còn sóng dưới lòng sâu là những con sống ngầm dưới mặt nước ta khó lòng có thể biết được.
Như ta đã biết sóng là biểu trưng cho tình yêu, cho nỗi nhớ. Trong tình yêu, khi người ta xa cách nhau thường đem lại sự nhớ nhung tha thiết. Có những người đem nỗi nhớ nhung đó giấu trong lòng, không thổ lộ với ai và cũng có những người họ bày tỏ, biểu hiện nỗi nhớ đó ra bên ngoài.
Chúng ta có thể dễ dàng thấy được sóng là một hình ảnh hàm súc, gợi tả, gợi cảm và cũng là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh.
Sóng là hình ảnh biểu trưng trạng thái bất ổn định của tình yêu. Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ trong tình yêu bằng hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Ôi con sóng nhớ bờ”, “sóng” còn là biểu tượng cho người con gái trong tình yêu khi nhớ về người con trai đó là “bờ”.
“Sóng” và “bờ” là hai hình ảnh sóng đôi nhau ngoài đời thực, con “sóng” dù có đi xa tới mấy cũng trở về với “bờ”. Khi rời xa nhau thì sự nhớ nhung lại trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi “Ngày đêm không ngủ được”.
Nỗi nhớ thường trực biến thành sự thao thức đến nỗi không ngủ. Đến đây ta có thể thấy được sự quen thuộc mà những ai đã và đang yêu đều từng trải qua. Không chỉ sử dụng hình ảnh ẩn dụ mà Xuân Quỳnh còn biểu lộ trực tiếp:
Từ “sóng” với “bờ” đã chuyển sang thành “anh” với “em”. Anh với em giống với con sóng và bờ kia, cũng chứa đựng những cung bậc cảm xúc như vậy đó là nỗi nhớ trong em cũng không thua kém gì với sóng.
Nếu như “sóng” ngày đêm không ngủ, thao thức thì em ở một cấp độ cao hơn đó là thức ở chính trong giấc mơ của mình. Ý nói rằng dù thức hay ngủ thì nỗi nhớ vẫn xâm chiếm. Nỗi nhớ ấy còn được nhấn mạnh hơn nữa trong bốn câu tiếp theo:
Tác giả đã sử dụng phép đối lập giữa “Bắc và Nam”, giữa “xuôi và ngược” để thể hiện nỗi nhớ và tình yêu tha thiết của cô gái với chàng trai. Thông thường người ta thường nói “xuôi Nam”, “ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó cho thấy tình yêu không theo một quy luật chủ thể, có thể đi ngược lại với thực tế.
Có thể nói dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương.
Đoạn thơ thể hiện những tâm tình xao xuyến, trăn trở đi kèm với những nồng nhiệt say mê của người con gái trong tình yêu. Qua đó cũng thể hiện nỗi khát vọng tình yêu, khát khao được yêu thương được nếm trải những cung bậc tình yêu trong cuộc sống của nhà thơ.
Mời bạn khám phá thêm nội dung đặc sắc trong tuyển tập 💕 Cảm Nhận Bài Thơ Tràng Giang 💕 hay nhất.
Cảm Nhận Khổ 4 5 6 Bài Sóng với giọng nói tha thiết về tình yêu, tiếng nói của người phụ nữ với tâm hồn đầy trắc ẩn
Xuân Quỳnh, giọng nói tha thiết về tình yêu, tiếng nói của người phụ nữ với tâm hồn đầy trắc ẩn. Xuân Quỳnh xứng đáng với danh hiệu là bà hoàng thơ tình. Giọng thơ của Xuân Quỳnh khác với tiếng thơ của Xuân Diệu.
Cũng nói về tình yêu nhưng với Xuân Quỳnh thì nổi bật với giọng thơ đầy tha thiết, một niềm tin vào tình yêu dù đã trải qua những đổ vỡ. Và điều đó được thể hiện rõ nét qua khổ 5, khổ 6, khổ 7 trong bài thơ sóng.
Tình yêu của Xuân Quỳnh tha thiết và rạo rực như những con sóng. Xuân Quỳnh điệp cấu trúc “con sóng” nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ của mình tựa như nhiều con sóng ngoài biển khơi, dù ở bất kì đâu, dù ở bất kì nơi nào.
Tiếp đó sử dụng biện pháp tương phản đối lập, đối giữa con sóng lòng sâu với con sóng trên mặt nước, đó là nỗi nhớ bao trùm cả không gian và thời gian. Con sóng gắn được nhân hóa thể hiện qua “nỗi nhớ” như tấm lòng người thiếu nữ. Đó cũng là một cách Xuân Quỳnh gián tiếp thể hiện nỗi nhớ của em.
Nỗi nhớ của em xâm chiếm toàn tâm trí, như tràn ngập giữa không gian và thời gian. Nỗi nhớ như giăng mắc khắp nơi, và em thể hiện trực tiếp nỗi nhớ ấy.
Nếu trong thời phong kiến, tình yêu của người phụ nữ thường phải ví von ước lệ, thì cách bộc lộ tình yêu trực tiếp, mạnh bạo này của Xuân Quỳnh là một nét đẹp người phụ nữ hiện đại, cái chất hiện đại trong thơ của bà.
Với một trái tim không lúc nào vơi bớt tình yêu, khát khao yêu và được yêu, tình yêu ấy xâm chiếm toàn bộ suy nghĩ của em, khiến “trpng mơ còn thức” đúng là một cách thể hiện cực kỳ độc đáo.
Nếu mới đọc câu thơ, tưởng như thấy một sự vô lý, phi logic trong lời thơ, nhưng cũng một phần bởi sự chi phối của cảm xúc chủ thể, nên câu thơ nghiêng về cảm tính nhiều hơn là lí trí.
Đây cũng là một câu thơ nói về tình yêu mới lạ, cả trong mơ em đều mong ngóng và nghĩ về anh. Từng nỗi lo lắng, suy nghĩ em đều dành cho anh, dành cho tình yêu lứa đôi. Nỗi nhớ ấy ăn sâu vào tiềm thức, cả trong mơ hình bóng anh vẫn luôn hiện trong tâm trí và suy nghĩ em.
Vì tình yêu càng lớn, nên trái tim em vô thức cũng nghĩ về anh nhiều hơn. Dù trong mọi hoàn cảnh, trong mọi hành động, mọi nơi chốn, dù cho không thể gặp được nhau. Đó là một tấm lòng thủy chung son sắc.
Điệp từ “dẫu” thể hiện một cách chắc chắn, rằng dù có ở phương trời nào đi chăng nữa, em vẫn sẽ luôn hướng về anh, luôn quan tâm, sẻ chia, chăm sóc và lo lắng cho anh, như một sự chắc chắn sẽ bất chấp hết những khó khăn, thử thách.
Người ta vốn thường nói xuôi nam, ngược bắc. Cách nói ngược lại giữa hai nơi nhằm nhấn mạnh sự trắc trở, khó khăn và thử thách. Từ đó càng khiến ta thấy rõ tấm lòng thủy chung của em dành cho anh.
Ta thường nghe về phương bắc, phương nam, co bao giờ nghe đến “phương anh?” Phương anh là ở đâu chẳng biết, nhưng với người con gái khi yêu, em luôn hướng về phương anh, và nơi ấy chính là phương riêng của trái tim em.
Đây là khổ thơ thể hiện rõ nhất niềm tin của em. Hình ảnh “đại dương” biểu tượng cho cuộc đời. Những con sóng có đại dương rộng lớn, thì cũng giống như em, một mình đối diện với cuộc đời bao la. “Trăm ngàn con sóng đó” như trăm ngàn cuộc đời, kiếp người mong muốn tìm thấy một tình yêu đúng nghĩa.
Và em luôn tâm niệm trong trái tim mình một niềm tin bất diệt vào tình yêu. Như Juliet dù gặp khó khăn khi đến với Romeo bởi định kiến dòng họ, nhưng sau cùng, tình yêu đẹp đều tìm đến được với nhau. Và câu thơ “con nào chẳng tới bờ” đã khẳng định niềm tin vào điều đó.
Nhờ việc đảo vị trí câu thơ giữa câu ba và câu bốn, khiến ta như càng cảm thấy một chút dự cảm lo âu. Dù có niềm tin mãnh liệt như thế nào, thì em cũng là một người con gái, dù muốn hay không vẫn luôn có những lo âu thấp thỏm về tình yêu. Liệt thật sự những tình yêu đẹp sẽ đến được với nhau dễ dàng?
Đọc bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, ta không thể quên những khổ thơ đầy tha thiết và nói rất hay về tình yêu như vậy. Ba khổ thơ đã góp phần nổi bật tư tưởng cả bài thơ.
Và cảm ơn Xuân Quỳnh, người phụ nữ đã cất lên một giọng ca về tình yêu giữa cuộc khánh chiến chống Mĩ đầy ác liệt. Để càng nổi bật sự thủy chung trong hoành cảnh chiến tranh. Cho dù bom đạn có dội xuống, những tình yêu đẹp vẫn mãi trường tồn.
Ngoài Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng, xem nhiều hơn những bài thơ đặc sắc trong 🌹 Thơ Mất Niềm Tin Vào Tình Yêu 🌹
Cảm Nhận Khổ 5 Và 6 Bài Sóng là đoạn thơ đặc sắc nhất trong cả bài thơ, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ luôn khao khát yêu thương trong mối tình rạo rực.
“Sóng” của Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một bài thơ tình rất đẹp. Vẻ đẹp của một tâm hồn khao khát yêu thương trong mối tình đầu rạo rực của thiếu nữ. Vẻ đẹp của nhạc; nhạc của lòng cũng là nhạc của thơ, nhạc của sóng reo, sóng vỗ. Vẻ đẹp của men say tình ái được cất lên thành lời ca ngọt ngào, tha thiết biết bao:
Hình tượng “sóng” đầy thi vị. Bất cứ ở đâu, dù ở “dưới lòng sâu” hay ở “trên mặt nước”, thì sóng vẫn “nhớ bờ”. Dù cả trong ngày và trong đêm dài vắng vẻ, sóng vẫn “không ngủ được”. Các động từ – vị ngữ: “nhớ bờ”, “không ngủ được” đã được nữ sĩ dùng rất đắt, tinh tế và biểu cảm, đem đến cho ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu:
Nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt. Dù ở không gian nào “dưới lòng sâu hay “trên mặt nước”, dù ở thời gian nào “ngày” cũng như “đêm”, sóng vẫn “nhớ”, sóng vẫn bồn chồn, thao thức “không ngủ được”.
Lấy không gian và thời gian để “đo” nỗi nhớ của em, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương. Sóng đã được nhân hóa mang hồn em và tình em. Từ cảm “ôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một tiếng lòng chấn động rung lên: “Ôi con sóng nhớ bờ…”.
Từ hiện tượng sóng vỗ xôn xao suốt đêm ngày trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình cảm của thiếu nữ:
“Cả trong mơ” và cả khi “còn thức”, trong thực và trong mộng, em vẫn “nhớ đến anh”. Hình bóng chàng trai – người tình đã choáng ngợp tâm hồn cô gái. Yêu là sự hòa nhập hai tâm hồn.
Sóng trên đại dương là biểu tượng cho sự sống muôn đời, cũng như tình yêu của “em” đối với “anh” mãi mãi là nỗi khao khát nhớ thương, mong đợi, trong không gian, trong thời gian, và “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã có một cách nói mới mẻ, một cách diễn đạt độc đáo khi thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, của “em”. Ta hãy trở về với ca dao:
Hay:
Hay:
Qua đó, ta mới cảm thấy cái ý vị đậm đà của ngôn từ, cái cảm xúc nồng cháy của tâm hồn thiếu nữ: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”.
Tình yêu luôn luôn đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Sự cách trở ấy đã làm cho tâm hồn thiếu nữ, tâm hồn “em” thêm đẹp, đinh ninh lời thề nguyền “Trăm năm một chữ đồng đến xương” (Truyện Kiều).
Lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu, họ quyết tâm vượt qua mọi thử thách “Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua” để được sống dưới một mái ấm hạnh phúc đời đời bên nhau.
Với “em” thì dù đi đâu, dù có lên thác xuống ghềnh, “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược phương Nam” trong bom đạn thời chiến tranh chống Mỹ (1967), lòng em vẫn “Hướng về anh một phương”, hướng về “anh”, người mà “em” thương nhớ, đợi chờ:
Các điệp ngữ: “dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về”, “phương” (phương Bắc, phương Nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: “Em cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định một cách mạnh mẽ. Chữ “một” trong câu thơ “hướng về anh một phương” đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung.
Xuân Quỳnh đã viết nên những vần thơ ngũ ngôn có nhạc điệu ngân vang tha thiết, có hình tượng sóng và hình tượng em rất đẹp. Các ẩn dụ và liên tưởng đầy tính nhân văn.
Cấu trúc song hành (câu 1 với 2, câu 3, 4 với câu 7, 8) và các điệp ngữ (sóng… dẫu… về, phương) đã tạo nên âm điệu triền miên, liên hồi như tiếng sóng vỗ xôn xao, bồi hồi trong lòng “em”.
“Yêu là chết ở trong lòng một ít” – Không! Với Xuân Quỳnh, thì tình yêu là “khát vọng, đã làm cho thiếu nữ hồn hậu hơn, cao quý hơn. Bởi lẽ:
Ngoài Cảm Nhận Khổ 5 6 Bài Sóng, giới thiệu với bạn tuyển tập 🌨 Nghị Luận Về Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌨
Cảm Nhận Khổ 5 6 7 Bài Sóng với một nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu của trái tim người phụ nữ.
Nhắc đến thơ tình không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Xuân Quỳnh viết về tình yêu rất thực, thơ bà da diết, dạt dào nhưng cũng đầy quyết liệt, mạnh mẽ. Vào những năm 1967, khi mà đất nước ta đang trong những ngày chống giặc cứu nước.
Bên cạnh những bản hùng ca chiến trận ca ngợi tinh thần cách mạng của các chiến sĩ thì còn có những bản tình ca của đời sống, Xuân Quỳnh đã viết nên bài thơ “Sóng” mang nét riêng giữa muôn vàn vẻ đẹp của thơ ca vào khoảng thời gian này.
“Sóng” đã thể hiện thật sinh động những vẻ đẹp trong tâm hồn của nữ thi sĩ đồng thời cho thấy được tài năng trong ngòi bút của Xuân Quỳnh khi bộc lộ những cảm xúc tình cảm nội tâm đầy tinh tế qua thơ.
Thi phẩm “Sóng” đã đưa độc giả đến với những chân trời của những cảm xúc vui buồn, lắng lo, hạnh phúc và cả chân trời của sự thủy chung trong tình yêu. Những nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.
Xuân Quỳnh đã rất tinh tế dùng hình ảnh sóng để chỉ em- người con gái đang yêu. Em cũng như con sóng ngoài biển cả dạt dào, dù là dưới đáy sâu nơi đại dương rộng lớn hay chỉ thoáng qua lênh đênh trên mặt biển thì vẫn luôn nhớ về anh- người mà em yêu.
Nỗi nhớ ấy đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em. Sóng biển cũng chính là những cơn sóng lòng đang cuộn trào dữ dội trong em, nỗi nhớ về người thương thật mạnh mẽ biết bao.
Tiếng “Ôi” cất lên nghe thật tha thiết, nỗi nhớ trào dâng nơi sâu thẳm trái tim người con gái. Con sóng ngoài kia vẫn cứ thế theo từng đợt gió, dù êm đềm hay dữ dội ngày đêm vẫn vỗ tới bờ, vẫn tìm đến bờ thì em cũng như thế, cũng nhớ anh ngày đêm, mong được đến bên anh.
Nỗi nhớ khôn nguôi ấy luôn thường trực trong tâm trí, khiến “em” không khỏi thao thức, trăn trở “không ngủ được”, ngay cả trong giấc mơ vẫn là bóng hình của người thương trong đó.
Nỗi nhớ vượt lên cả sự chảy trôi của thời gian, của ngày đêm yêu, của tháng năm yêu. Tình cảm nơi tâm hồn Xuân Quỳnh thật chân thành, thắm thiết, sâu sắc và mãnh liệt biết bao.
Nỗi nhớ ấy tựa như nỗi nhớ của người con gái xưa:
Tình yêu thật nồng cháy, dẫu cho có khoảng cách xa xôi, có mỗi người mỗi hướng thì lòng thủy chung, son sắt vẫn luôn cháy mãi nơi đáy lòng. Dù người tình có ở nơi đâu, có ở chốn phương Bắc lạnh giá hay chốn trời Nam xa xôi thì cũng không làm em nản lòng mà thôi nhớ, thôi nghĩ về anh.
Khoảng cách có sá gì đâu khi tim luôn nhìn về một hướng- hướng anh- phương hướng tình yêu chúng mình. Khoảng cách địa lý không thắng nổi sự yêu thương của tình yêu mãnh liệt, khi trái tim hai con người đã gắn kết như sợi tơ hồng đã se duyên, khi người kia đã đặt trọn vẹn niềm tin cho đối phương của mình.
Điệp từ “dẫu” kết hợp với hai cụm động từ “ngược về phương Nam” ,” xuôi về phương Bắc” như một cách thể hiện những thách thức, trắc trở trong tình yêu và sự chiến thắng khó khăn ấy bằng tình yêu mãnh liệt.
Lời nguyện thề nơi nào em cũng hướng về anh thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Là một người con gái, nhưng Xuân Quỳnh không hề đứng đó là đợi chờ tình yêu, nhà thơ luôn thể hiện sự chủ động của mình.
Với nhà thơ, tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, đã yêu là phải sống thật trọn vẹn, hết lòng với tình yêu, bởi thế mà những vần thơ không chỉ mang nét dễ thương, đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt và dứt khoát.
Trong cuộc sống, mỗi công việc đều có những khó khăn và áp lực riêng cũng như trong tình yêu vậy, mỗi mối tình đều có những trắc trở, thử thách nhất định. Song, nếu cùng nhau cố gắng, cùng nhau vun đắp, cùng hiểu và bao dung cho nhau thì rồi tình yêu cũng sẽ kết thành trái ngọt, ngày mà tình yêu được đến đích cuối cùng của bến bờ hạnh phúc:
Sóng biển ngoài đại dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên. Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa có câu:
Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.
Ba khổ thơ tuy không quá dài nhưng cũng đủ để ta thấy được một tâm hồn yêu hết mình, sống hết mình với tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Tiếng thơ ấy cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu. “Sóng” đích thực đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, khiến họ rung cảm và thổn thức với từng thanh âm, giai điệu của bài thơ.
Văn Mẫu Lớp 7: Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tiếng Gà Trưa Của Xuân Quỳnh Dàn Ý & 10 Bài Văn Mẫu Hay Lớp 7
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa
Hôm nay, chúng tôi muốn cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh, bao gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu sau đây.
Dàn ý cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưaI. Mở bài
Giới thiệu về nhà thơ Xuân Quỳnh, bài thơ “Tiếng gà trưa” cũng như cảm nhận chung của người viết.
II. Thân bài
1. Tiếng gà trưa trong nỗi niềm thương nhớ của người lính trẻ
Hoàn cảnh: Trên đường hành quân xa, người lính dừng chân bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi.
Âm thanh tiếng gà trưa đã gợi nhắc về những kỉ niệm tuổi thơ sống cùng bà.
2. Kí ức tuổi thơ gợi nhớ trong tiếng gà trưa
Những kỉ niệm đặc sắc của tuổi thơ: Hình ảnh con gà quen thuộc, xem trộm gà để trứng bị bà mắng…
Hình ảnh người bà hiện lên tần tảo, yêu thương và đầy tình cảm: Chắt chiu từng quả trứng…
3. Những suy tư của người cháu từ tiếng gà trưa
Ý nghĩa của tiếng gà trưa: mang bao nhiêu hạnh phúc, kỉ niệm về người bà
Mục đích chiến đấu cao cả: vì tổ quốc, xóm làng thân thuộc, bà
III. Kết bài
Đánh giá, cảm nhận về bài thơ “Tiếng gà trưa”.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 1Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ được nhiều người yêu thơ mến mộ. Thơ chị trẻ trung, sôi nổi, giàu chất trữ tình. Vốn xuất thân từ nông thôn nên Xuân Quỳnh hay viết về những đề tài bình dị, gần gũi của cuộc sống đời thường như tình mẹ con, bà cháu, tình yêu, tình quê hương, đất nước. Ngay từ tập thơ đầu tay “Tơ tằm – Chồi biếc” (in chung – 1963), Xuân Quỳnh đã gây được sự chú ý của người đọc bởi phong cách thơ mới mẻ. Hơn hai mươi năm cầm bút, chị đã sáng tác nhiều tập thơ có giá trị, tạo ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Bài thơ “Tiếng gà trưa” đã thể hiện được tình cảm sâu sắc về gia đình, quê hương và đất nước.
Tác phẩm được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ trên phạm vi cả nước. Bị thua đau ở chiến trường miền Nam, giặc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại bằng máy bay, bom đạn… ra miền Bắc, hòng tàn phá hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy, hàng triệu thanh niên đã lên đường với khí thế:
Nhân vật trữ tình trong bài thơ là người chiến sĩ trẻ đang cùng đồng đội trên đường hành quân vào Nam chiến đấu.
“Tiếng gà trưa” đã gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu đất nước. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết. Nhớ nhà, đó là tâm trạng tất yếu của những người lính trẻ vừa bước qua hoặc chưa bước qua hết tuổi học trò đã phải buông cây bút, cầm cây súng ra đi đánh giặc cứu nước. Nỗi nhớ ở đây thật giản dị và cụ thể. Chỉ một tiếng gà trưa bất chợt nghe thấy khi dừng chân bên xóm nhỏ là đã gợi dậy cả một trời thương nhớ. Tiếng gà nhảy ổ làm xao động nắng trưa và cũng làm xao xuyến hồn người. Nghe tiếng gà mà như nghe thấy tiếng quê hương an ủi, vỗ về và tiếp thêm sức mạnh. Điệp từ “nghe” được nhắc lại ba lần, mở đầu ba câu thơ liên tiếp thể hiện sự rung cảm cao độ trong tâm hồn chiến sĩ:
Quê nhà hiện lên rõ nét trong tâm tưởng và những kỉ niệm tuổi thơ lần lượt sống dậy qua những hình ảnh thân thương. Tiếng gà trưa nhắc nhớ đến “Ổ rơm hồng những trứng” của mấy chị mái mơ, mái vàng xinh xắn, mắn đẻ. Tiếng gà trưa khiến người cháu xa nhà nhớ đến người bà kính yêu một đời tần tảo. Thương biết mấy là cảnh đứa cháu tò mò xem gà đẻ, bị bà mắng: “Gà đẻ mà mày nhìn/Rồi sau này lang mặt”. Chẳng hiểu hư thực ra sao nhưng cháu tin thật: “Cháu về lấy gương soi/Lòng dại thơ lo lắng”. Giờ đây, đứa cháu đã trưởng thành ao ước trở về thời bé bỏng để lại được nghe tiếng mắng yêu của bà, được thấy bóng dáng quen thuộc của bà khum tay soi trứng, chắt chiu từng mầm hy vọng sẽ có được một đàn gà con đông đúc.
Suốt một đời lam lũ, lo toan, bà chẳng bao giờ nghĩ đến bản thân mà chỉ lo cho cháu, bởi đứa cháu đối với bà là tất cả. Bà thầm mong đàn gà thoát khỏi nạn dịch mỗi khi mùa đông tới: “Để cuối năm bán gà/Cháu được quần áo mới”.
Ao ước của đứa cháu có được cái quần chéo go, cái áo cánh chúc bâu còn nguyên vẹn lần hồ sột soạt và thơm mùi vải mới được nhân lên gấp bội trong lòng bà yêu cháu. Hạnh phúc gia đình giản dị, đầm ấm mà rất đỗi thiêng liêng cùng bao khát vọng tuổi thơ dường như gói gọn cả trong tiếng gà trưa:
Thông qua nỗi nhớ được khơi dậy từ tiếng gà trưa, nhà thơ Xuân Quỳnh đã miêu tả tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và tình cảm yêu mến, kính trọng bà của một em bé nông thôn. Tình bà cháu thắm thiết đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người chiến sĩ hôm nay đang trên đường hành quân chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước:
Khổ thơ cuối cùng là lời tâm sự chân thành của đứa cháu chiến sĩ trên đường ra tiền tuyến gửi về người bà kính yêu ở hậu phương. Từ tình cảm cụ thể là tình bà cháu đến tình cảm lớn lao như lòng yêu Tổ quốc, yêu xóm làng thân thuộc đều được biểu hiện bằng hình thức nghệ thuật giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hàng ngày; ấy vậy mà nó lại gây xúc động sâu xa bởi nhà thơ đã nói giúp chúng ta những điều thiêng liêng nhất của tâm hồn.
Bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh, một lần nữa chúng ta nhận thấy rằng nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua thật sáng suốt khi đúc kết nên chân lý: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vôn-ga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 2“Bà” – một tiếng gọi bình dị mà chan chứa bao tình cảm yêu thương. Hình ảnh người bà thân quen trong cuộc sống, hiền hậu ôn tồn chỉ bảo cho con cháu nhân đạo và lẽ đời. Người bà luôn yêu thương, quan tâm và lo lắng cho những đứa cháu nghịch ngợm… Ta có thể tìm được một người bà như thế trong bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh. Bài thơ đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Đặc biệt là vẻ đẹp bình dị của tình bà cháu.
Bài thơ năm chữ tự do đã cho ta thấy những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ, tình bà cháu nồng hậu và lòng yêu nước sâu nặng của một người chiến sĩ. Trên đường hành quân xa, người chiến sĩ dừng chân bên xóm nhỏ. Nghe tiếng gà “cục tác… cục ta”, anh xúc động vô cùng. Dòng cảm xúc từ hiện tại trôi về quá khứ với bao kỉ niệm cảm động lại tràn về.
Tác giả đã điệp từ “nghe” để nhấn mạnh nỗi xúc động của người chiến sĩ khi nghe tiếng gà trưa. Từ nghe ở đây không chỉ bằng thính giác mà còn bằng cảm giác, sự tâm tưởng, sự nhớ lại. Tiếng gà trưa gợi nhớ bao kỉ niệm đẹp thời thơ ấu được sống trong tình yêu thương của người bà, giúp cho anh vơi đi sự mệt mỏi trên quãng đường hành quân. Ta có thể cảm nhận được tình yêu quê hương thắm thiết của người lính trẻ.
Trong năm khổ thơ giữa, tiếng gà trưa đã gợi nhớ bao kỉ niệm sâu sắc một thời thơ bé sống trong tình yêu thương của bà. Quên sao được lời mắng yêu chân thật, giản dị mà chan chứa bao tình thương của bà:
Sợ bị lang mặt, “cháu về lấy gương soi, lòng dại thơ lo lắng”. Kỉ niệm rất đỗi đời thường, bình dị mà sâu sắc, chân thật.
Bà luôn chịu thương chịu khó, chắt chiu, lo cho đàn gà:
Cứ mùa đông hằng năm, bà lại “lo đàn gà toi, mong trời đừng sương muối để cuối năm bán gà” và mua quần áo mới cho cháu.
Khi được quần áo mới, người cháu vui sướng vô cùng. Người cháu không hề chê ống quần rộng, áo trúc bâu vì hiểu được sự vất vả và tình yêu thương của bà dành cho mình.
Tác giả đã điệp từ “vì” để nhấn mạnh nguyên nhân khiến người chiến sĩ ra đi chiến đấu. Không phải bắt nguồn từ những nguyên nhân to lớn nào khác mà chính là vì bà, nơi quê hương thân thuộc có tiếng gà cục tác, ổ trứng hồng tuổi thơ.
Âm thanh tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng được lặp lại bốn lần xuyên suốt trong bài thơ như nhắc nhở, lay gọi bao tình cảm đẹp. Ta có thể thấy được tình cảm gia đình làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương đất nước rộng lớn của người chiến sĩ. Một tình bà cháu đẹp đẽ, nồng hậu và ấm áp!
“Tiếng gà trưa” không chỉ là âm thanh quen thuộc từ đời sống của mỗi làng quê mà còn là âm vang của kỉ niệm, những hồi ức đẹp. Hình ảnh người bà trong bài thơ khiến cảm xúc trong người tôi dâng trào, nhớ tới người bà đã khuất của mình. “Tiếng gà trưa thực là một bài thơ hay!”.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 3Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ xuất sắc của nền văn học hiện đại. Chị thường viết về những gì bình dị gần gũi trong đời sống thường ngày. Thơ của Xuân Quỳnh thường có giọng điệu sôi nổi trẻ trung mạnh bạo và giàu chất trữ tình. “Tiếng gà trưa” được viết vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ thể hiện tình yêu thương tổ quốc, quê hương trong đó sâu lặng và thắm thiết là tình bà cháu.
Được làm theo thể thơ năm chữ có sự biến đổi linh hoạt. Cách gieo vần liền ở những câu hai, bà xen kẽ là vần giãn cách. Thể thơ này thích hợp kể lại kí ức và kỷ niệm:
Tiếng gà cục tác buổi trưa để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người chiến sĩ nó gắn với kỉ niệm sâu sắc tuổi ấu thơ. Chính vì vậy nó gắn với kỉ niệm sâu sắc tuổi ấu thơ. Cũng chính vì vậy trong vô vàn âm thanh của làng quê, người chiến sĩ nghe thấy rõ nhất là tiếng gà cục tác. Vào một buổi trưa hè tại một làng quê vắng vẻ, trên đường hành quân người chiến sĩ được tiếp sức từ tiếng gà trưa:
Điệp từ “nghe” được đặt ở ba câu đầu liên tiếp để nhấn mạnh giàu cảm xúc mà tiếng gà trưa đem lại. Với lối ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, lấy thính giác thay cho thị giác. Tiếng gà trưa đã làm xao động cả không gian làm xao động cả lòng người. Tiếng gà trưa làm thức dậy cả những kỉ niệm tuổi thơ. Cách hiểu nghĩa của cả hai câu thơ “Nghe xao động nắng trưa”, “Nghe gọi về tuổi thơ” thiên về nghĩa bóng thì câu thơ “Nghe bàn chân đỡ mỏi” thì thiên về nghĩa đen. Cách đảo trật tự ở các câu không giống nhau làm cho âm điệu các câu thơ thay đổi, tránh được sự nhàm chán và diễn tả sự bồi hồi xao xuyến của tâm hồn. Tiếng gà trưa được cảm nhận từ nhiều giác quan bằng cả tâm hồn.
Những câu thơ mở đầu không có ẩn ý hoàn toàn giản dị như một bài đồng dao nhưng nó làm cho lòng người đọc nhẹ lại vì sự trong trắng sinh động và thân thiết.
Những kỉ niệm tuổi thơ sau mỗi câu thơ “Tiếng gà trưa” lại gợi lên kỉ niệm:
Sau một câu kể là một câu tả, câu tả có kết cấu sóng đôi và lặp lại từ “này” là từ dùng để chỉ và lưu ý người nghe tưởng tượng. Các tính từ “hồng”, “trắng”, “óng” đều là gam màu tươi sáng gợi lên bức tranh đàn gà lộng lẫy tác giả còn sử dụng biện pháp so sánh “Lông óng như màu nắng” gợi lên vẻ đẹp rực rỡ. Tác giả tạo ra điều bất ngờ trong bài thơ không miêu tả tiếng gà trưa mà nói đến sự xuất hiện bất ngờ “ổ rơm hồng những trứng” đó là phép lạ mà tiếng gà trưa đem lại.
Trong bức tranh gà mà Xuân Quỳnh miêu tả rất đặc biệt, ê rơm vàng óng lăn lóc những quả trứng hồng, con gà mái mơ có bộ lông đan xen các màu trắng, đen, hồng… trứng nó giống hình hoa văn mà người nghệ sĩ tạo hình chấm phá. Ánh vàng rực rỡ của con gà mái vàng, lông óng lên như màu nắng, bà cùng cháu vừa tung những hạt cơm, hạt gạo cho lũ gà ăn, quan sát những chú gà xinh đẹp đang nhặt thóc quanh sân. Cháu cùng bà đếm từng chú gà trong vườn nhà.
“Tiếng gà trưa” cất lên nơi xóm nhỏ, người chiến sĩ nhớ về người bà thân yêu. Tuổi thơ sống bên bà có biết bao kỉ niệm đáng nhớ, tính hiếu kỳ, tò mò của trẻ thơ quan sát con gà đẻ trứng. Rồi bị bà mắng, sợ mặt bị lang, trong lòng cháu hiện lên lo lắng:
Cháu còn làm sao quên được hình ảnh “Tay bà khum soi trứng” – bà “tần tảo” “chắt chiu” từng quả trứng hồng cho con gà mái ấp là cháu lại nhớ đến bao nỗi lo của bà khi mùa đông tới:
Đoạn thơ nghe giản dị mà thật gần gũi nhường nào, những chi tiết tác giả miêu tả gắn bó thân thuộc với quê hương làng xóm, hơn thế nó là những kỉ niệm không bao giờ phai nhạt trong tâm trí trẻ thơ. Nỗi lo của bà thật cảm động xiết bao, đàn gà kia sẽ bị chết nếu như sương muối giá lạnh và cháu bà lại chẳng được may áo mới:
Cháu nhớ mãi sau mỗi lần gà được bán, bà lại ra chợ chọn mua cho cháu yêu bộ quần áo thật đẹp. Tình cảm yêu thương nồng hậu bà luôn dành trọn cho cháu, cho con. Tuổi thơ sống bên bà đây là quãng đời đầy ắp những kỉ niệm khó quên.
Lần thứ tư “Tiếng gà trưa” lại cất lên. Tiếng gà gọi về những giấc mơ của người lính trẻ:
Âm thanh xao động của tiếng gà trưa bình dị mà thiêng liêng, nó gợi tình cảm đẹp trong lòng người chiến sĩ hành quân ra trận. Âm thanh ấy như tiếng của quê hương, đất mẹ thân yêu:
Trong bài thơ có ba câu thơ rất hay “Ổ rơm hồng những trứng/Giấc ngủ hồng sắc trứng/ Ổ trứng hồng tuổi thơ”. Cả ba câu thơ đều nói về hạnh phúc tuổi thơ, hạnh phúc gia đình làng xóm. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí người chiến sĩ hành quân ra trận thật đẹp. Lưu Trọng Lư khi nghe “Xao xác gà trưa gáy não nùng” đã nhớ về nét cười đen nhánh, màu áo đỏ của mẹ hiền đã đi xa. Bằng Việt khi xa quê đã nhớ về quê qua hình ảnh người bà kính yêu. Tiếng tu hú kêu gọi hè về, nhớ bếp lửa ấp iu nồng đượm bà nhen nhóm sớm hôm. Và bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh gợi nhớ về bà qua tiếng gà xao xác ban trưa.
Bài thơ “Tiếng gà trưa” là bài thơ hay tha thiết ngọt ngào. Tiếng gà cũng là tiếng gọi thân yêu của bà, của mẹ, của quê hương. Tiếng gọi thân yêu ấy như là niềm tin cho người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương yêu dấu.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 4“Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh là một trong số những bài thơ viết về tình cảm bà cháu. Bài thơ là sự bộc lộ tình cảm yêu quê hương, đất nước chân thành, sâu lắng của nhà thơ.
Tiếng gà trưa xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm. Mở đầu bài thơ, âm thanh tiếng gà vang lên đã khơi gợi cho người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ. Trên đường hành quân xa xôi, người chiến sĩ dừng lại bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi. Thì tiếng gà bỗng vang lên: “Cục… cục tác cục ta” – đó là thứ âm thanh đã quá quen thuộc ở bất cứ làng quê nào của Việt Nam. Tiếng gà ấy đã gợi dậy trong lòng trong thật nhiều cảm xúc. Từ “nghe” được nhắc lại đến ba lần cùng với những hình ảnh “xao động nắng trưa”, “bàn chân đỡ mỏi” và “gọi về tuổi thơ”. Âm thanh ấy đã đánh thức không gian yên tĩnh ban trưa, khiến người chiến sĩ bớt mệt mỏi và gợi lại những kỉ niệm của tuổi thơ sống bên bà.
Tiếp đến người cháu đã nhắc lại những kỉ niệm về những năm tháng gian khổ mà ấm áp khi sống bên bà:
Nhớ về bà là nhớ về hình ảnh đàn gà mà bà vẫn ngày đêm vất vả chăm sóc. Hình ảnh đàn gà vốn rất thân quen trong cuộc sống nông thôn. Nhưng khi đi vào thơ Xuân Quỳnh, nó lại trở nên thật thơ mộng. Đó là chị gà mái mơ khắp mình có những chiếc lông trắng, hay con gà mái vàng lông óng như màu của ánh nắng. Thật tràn đầy sức sống!
Không chỉ vậy, đó còn là kỷ niệm đáng nhớ về một lần bị bà mắng nữa:
Đứa cháu khi ấy còn nhỏ nên ngây thơ tin lời bà mắng, lòng đầy những lo lắng về lấy chiếc gương soi. Rồi “tiếng gà” còn gợi nhắc về hình ảnh một người và tần tảo sớm hôm chăm sóc từng quả trứng, mong sao trời không làm sương muối, để đàn gà được khỏe mạnh. Cuối năm bà đem bán lấy tiền thì cháu sẽ có quần áo mới để mặc:
Cả cuộc đời của bà đã quá lo cho con, cho cháu. Để rồi quên đi những mệt nhọc vất vả của bản thân. Bà chăm sóc đàn gà, nâng niu chúng để cuối năm bán lấy tiền mua quần áo mới cho đứa cháu của mình.
Khổ thơ cuối cùng đã bộc lộ tình cảm sâu sắc của người chiến sĩ dành cho bà của mình:
Tiếng gà trưa đã mang đến cho cháu thật nhiều kỉ niệm, nhưng đẹp nhất vẫn là những kỉ niệm khi sống bên bà. Hôm nay, khi cháu đã trưởng thành, tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Người cháu chiến đấu không ngại gian khổ cũng chỉ vì “lòng yêu Tổ quốc” – tình yêu nước, “yêu xóm làng thân thuộc” – tình yêu quê hương và quan trọng nhất là “vì bà” – tình cảm gia đình. Một mục đích chiến đấu thật cao cả biết nhường nào.
Như vậy, khi đọc bài thơ “Tiếng gà trưa”, người đọc đã cảm nhận được tình cảm bà cháu sâu sắc. Tiếng gà trưa đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu. Tình cảm gia đình đã làm cho tình cảm yêu nước trở nên sâu sắc.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 5Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ “Tiếng gà trưa” được Xuân Quỳnh sáng tác vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tiếng gà trưa chính là tiếng gọi của quê hương, gia đình, xóm làng còn in đậm trong lòng người lính ra trận, trở thành hành trang của người lính trẻ:
Người chiến sĩ đang trên đường hành quân. Cuộc hành trình ấy đầy gian lao, vất vả. Khi nhìn thấy xóm làng ở phía xa, liền dừng chân vào nghỉ ngơi. Bỗng âm thanh của tiếng gà vang lên “Cục… cục tác cục ta” đã đánh thức suy nghĩ của người chiến sĩ những kỉ niệm tuổi thơ – những năm tháng được sống bên bà. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “nghe” cùng với các hình ảnh ẩn dụ “xao động nắng trưa”, “bàn chân đỡ mỏi”, “gọi về tuổi thơ” đã nhấn mạnh nỗi xúc động của người chiến sĩ khi nghe tiếng gà trưa.
Những kỉ niệm tuổi thơ bên người bà lần lượt hiện ra qua dòng hồi tưởng của người cháu:
Đó là hình ảnh “con gà mái mơ” – mình hoa đốm trắng, “con gà mái vàng” – lông óng như màu nắng vốn gần gũi với cuộc sống nông thôn nơi làng quê Việt.
Đặc biệt nhất là kỉ niệm khi cháu tò mò xem gà đẻ trứng, bị bà mắng:
Lời mắng của bà khiến đứa cháu lòng đầy lo lắng. Đó là những nỗi lo âu hồn nhiên rất con trẻ.
Rồi cả hình ảnh một người bà tần tảo sớm hôm:
Đôi bàn tay của bà “khum soi trứng” – nâng niu, chắt chiu từng quả trứng để con gà mái ấp. Cuộc đời của bà làm lụng vất vả cũng là vì con vì cháu. Bà chẳng nghĩ gì đến bản thân mình. Rồi khi mùa đông tới, trời trở lạnh, bà lại lo lắng đàn gà sẽ chết sẽ không có gì để bán lấy tiền mua quần áo mới cho cháu:
Khổ thơ cuối cùng là tình cảm sâu sắc của cháu dành cho bà. Tiếng gà trưa là nơi lưu giữ những hạnh phúc, những ước mơ mà cháu vẫn thường mong ước thuở nhỏ. Để rồi hôm nay đây, khi trưởng thành, cháu đã trở thành một người lính:
Điệp từ “vì” nhằm khẳng định mục đích của cháu khi tham gia chiến đấu. Trước hết đó là vì lòng yêu đất nước – “vì lòng yêu Tổ quốc”, yêu quê hương – “yêu xóm làng thân thuộc”. Sau cùng đó chính là vì bà – cháu hy vọng bà có thể sống bình yên. Đó đều là những mục đích chiến đấu hết sức cao cả, thiêng liêng.
Âm thanh “tiếng gà trưa” bao trùm khắp cả bài thơ – không chỉ gợi về những kỷ ức đẹp đẽ của tuổi thơ mà còn chứa đựng những tình cảm sâu sắc của người cháu dành cho bà của mình.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 6Xuân Quỳnh là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. “Tiếng gà trưa” được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ là âm thanh, tiếng gọi của quê hương, gia đình, xóm làng còn in đậm trong lòng người lính ra trận, trở thành hành trang của người lính trẻ.
Tiếng gà vốn là một là âm thanh đã rất quen thuộc ở các làng quê Việt. Nó gợi về cuộc sống bình yên của người nông dân quanh năm sau lũy tre làng. Nhưng bằng những cảm xúc rất riêng của mình, Xuân Quỳnh đã thổi vào âm thanh ấy dòng kỷ về những ngày thơ ấu. Tiếng gà trưa đã làm xao động cái nắng trưa trên đường hành quân. Người lính như được tiếp thêm sức mạnh cho đôi chân anh bớt mỏi, cho lòng anh dâng trào cảm xúc. Tiếng gà giống như tiếng gọi của quê hương:
Tiếp đến, cụm từ “tiếng gà trưa” được nhắc lại ba lần khiến người cháu nhớ về hình ảnh người bà thân yêu chắt chiu từng quả trứng hồng:
Những năm tháng tuổi thơ cháu được sống bên bà đã trải qua thật nhiều kỉ niệm đáng nhớ. Cháu nhớ nhất là khi tò mò xem bà đẻ trứng, rồi bị bà mắng. Lòng cháu ngây thơ tin lời bà, sợ mặt bị lang liền về lấy gương soi:
Nhưng nổi bật nhất chính là hình ảnh người bà. Bà đã luôn ân cần, hi sinh và mệt nhọc để mong có được một đàn gà để cuối năm bán đi lấy tiền sắm sửa quần áo cho cháu. Cả cuộc đời bà là những lo toan cho con cho cháu:
Tuổi thơ sống bên bà là những ngày tháng mà cháu không thể nào quên được. Tiếng gà trưa còn là lời gọi về những giấc mơ của người lính:
Thứ âm thanh quen thuộc vang lên gợi nhắc về những kỉ niệm tuổi thơ. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, thứ âm thanh ấy cũng giống như tiếng gọi của quê hương thân thuộc. Tiếng gà không chỉ là một âm thanh bình thường mà con người nghe thấy. Mà nó đã ám ảnh trong lòng người cháu với những ước mơ. Cuối cùng bài thơ cho người đọc thấy được mục đích chiến đấu của người chiến sĩ:
Từ “vì” được điệp lại bốn lần – khẳng định mục đích chiến đấu của người chiến sĩ. Người cháu chiến đấu vì tổ quốc thân thương, vì xóm làng quen thuộc nơi nhưng quan trọng nhất cũng là vì bà, với mong ước cuộc sống yên bình. Hai tiếng “bà ơi” vang lên thật xúc động. Tiếng gọi thân yêu ấy như là niềm tin cho người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương yêu dấu.
Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã khắc họa nổi bật tình cảm bà cháu đầy thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tình yêu quê hương, đất nước.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 7Xuân Quỳnh là nhà thơ của cảm xúc đời thường. Bài thơ “Tiếng gà trưa” được Xuân Quỳnh sáng tác đã cho người đọc cảm nhận về tình cảm bà cháu sâu sắc.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người cháu đang trên đường hành quân xa xôi đầy vất vả. Bỗng bắt gặp xóm làng, cháu nghe thấy âm thanh quen thuộc vang lên:
Đó chính là âm thanh của tiếng gà: “Cục… cục tác cục ta” gợi ra những kỉ niệm của tuổi thơ. Đó là những ngày tháng sống bên bà, tuy vất vả nhưng thật ấm áp. Biện pháp tu từ điệp ngữ với từ “nghe” cùng với các hình ảnh ẩn dụ “xao động nắng trưa”, “bàn chân đỡ mỏi”, “gọi về tuổi thơ” đã nhấn mạnh nỗi xúc động của người chiến sĩ khi nghe tiếng gà trưa. Đó là âm thanh làm xao động cả một vùng làng quê yên bình. Nó gọi về những kỉ niệm của tuổi thơ của người lính.
Kế tiếp, những kỉ niệm tuổi thơ được hiện ta lần lượt qua dòng hồi tưởng:
Hình ảnh trong kí ức của cháu về “con gà mái mơ” có mình hoa đốm trắng, “con gà mái vàng” có lông óng như màu nắng. Đặc biệt nhất là kỉ niệm khi cháu tò mò xem gà đẻ trứng, bị bà mắng:
Lời mắng của bà đã khiến cho đứa cháu tin là thật để rồi về lấy gương soi vì sợ bị lang mặt. Kỉ niệm về một tuổi thơ thật đáng nhớ. Nhưng không dừng lại ở đó, tiếng gà còn gợi cả về những nỗi nhọc nhằn của người bà:
Người bà đã bao năm vất vả nuôi lớn cháu. Bà dùng đôi bàn tay đã lao động cả một cuộc đời để nâng niu từng quả trứng cho con gà mái ấp. Bởi đó chính là nguồn sống để bà bán đi, cuối năm có tiền mua quần áo mới cho cháu. Người bà hiện ra với phẩm chất tiêu biểu của của người phụ nữ Việt Nam – đức hy sinh. Bà luôn vì con, vì cháu mà chẳng một phút nghĩ đến bản thân. Rồi khi mùa đông tới, trời trở lạnh, bà lại lo lắng đàn gà sẽ chết:
Tiếng gà trưa là nơi lưu giữ những hạnh phúc, những ước mơ mà cháu vẫn thường mong ước thuở nhỏ:
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 8Tiếng gà trưa là một trong những bài thơ hay của nhà thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ đã khơi gợi những kỉ niệm tuổi thơ và tình cảm bà cháu. Tình cảm gia đình đã làm cho tình cảm yêu nước trở nên sâu sắc.
Tiếng gà vốn là một âm thanh quen thuộc ở làng quê Việt Nam. Bởi vậy mà trong bài thơ “Tiếng gà trưa”, âm thanh này đã gợi nhắc nhân vật trong bài về những kỉ ức về tuổi thơ. Người cháu đang trên đường hành quân, nhìn thấy xóm làng liền ghé vào nghỉ ngơi. Khi nghe thấy tiếng gà, người cháu nhớ đến những ngày tháng còn sống bên cạnh bà:
Từng kỉ niệm đẹp đẽ, ấm áp lần lượt hiện lên trong suy nghĩ của người cháu:
Cháu nhớ nhất là khi tò mò xem bà đẻ trứng, rồi bị bà mắng. Lòng cháu ngây thơ tin lời bà, sợ mặt bị lang liền về lấy gương soi:
Đặc biệt là hình ảnh người bà – một người hiền hậu, tần tảo. Bà đã luôn ân cần, hi sinh và mệt nhọc để mong có được một đàn gà để cuối năm bán đi lấy tiền sắm sửa quần áo cho cháu. Cả cuộc đời bà là những lo toan cho con cho cháu:
Tuổi thơ sống bên bà tuy khó khăn, nhưng hạnh phúc. Điều đó khiến cho cháu không thể nào quên được:
Advertisement
Tiếng gà trưa cũng giống như tiếng gọi của quê hương thân thuộc. Tiếng gà không chỉ là một âm thanh bình thường mà con người nghe thấy. Mà nó đã ám ảnh trong lòng người cháu với những ước mơ. Cuối cùng bài thơ cho người đọc thấy được mục đích chiến đấu của người chiến sĩ:
Trong khổ thơ cuối, từ “vì” được điệp lại tới bốn lần từ đó khẳng định mục đích chiến đấu cao cả của người chiến sĩ. Người cháu yêu thương, kính trọng bà. Nhớ về bà bằng lòng biết ơn chân thành. Bà là một trong những lý do để cháu chiến đấu đem lại hòa bình cho đất nước cũng là cho bà.
Mạch cảm xúc của bài thơ diễn ra một cách tự nhiên. Từ hình ảnh tiếng gà nhớ về người bà tần tảo, để rồi bộc lộ tình yêu với bà và lời khẳng định mục đích chiến đấu cao cả.
Tình cảm bà cháu trong bài thơ vô cùng chân thành, cảm động. Bài thơ đã đem đến cho người đọc nhiều cảm xúc, suy tư.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 9Thơ của Xuân Quỳnh thường viết về những tình cảm gần gũi, bình dị, trong sáng của đời sống gia đình và cuộc sống hàng ngày. Và “Tiếng gà trưa” là một trong những bài thơ như thế.
Chúng ta có thể nghe thấy tiếng gà trưa ở mỗi làng quê Việt Nam. Đó là thứ âm thanh vô cùng quen thuộc, gợi nhắc con người nhớ về quê hương. Người cháu trong bài thơ đang trên đường hành quân, dừng chân tại một xóm nhỏ, và khi nghe thấy tiếng gà đã nhớ lại những kỉ niệm của thời thơ ấu:
Nhà thơ đã sử dụng điệp từ “nghe” kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “xao động nắng trưa”, “bàn chân đã mỏi” từ đó cho thấy tiếng gà trưa đã trở thành âm thanh gọi về tuổi thơ. Và rồi những kỉ niệm tuổi thơ lần lượt hiện ra qua dòng hồi tưởng của người cháu:
Hình ảnh “con gà mái mơ – mình hoa đốm trắng”, “con gà mái vàng – lông óng như màu nắng” vốn rất thân thuộc, gần gũi với nông thôn. Rồi cả lần cháu tò mò xem trộm gà đẻ, bị bà mắng:
Lời mắng yêu của bà chứa chan biết bao tình yêu thương dành cho đứa cháu còn thơ dại. Chẳng vậy mà bà phải chắt chiu, chăm sóc cho đàn gà để cuối năm bán đi lấy tiền mua quần áo mới cho cháu:
Bà khum soi trứng, chắt chiu từng quả để đem bán lấy tiền mua quần áo mới cho cháu. Khi mùa đông tới, trời trở lạnh, bà lại lo lắng đàn gà sẽ chết.
Người bà hiện lên với những sự vật quen thuộc gợi nhắc về hình ảnh bà thật giản dị, đậm chất thôn quê:
Tuổi thơ sống bên bà tuy khó khăn, nhưng hạnh phúc. Điều đó khiến cho cháu không thể nào quên được:
Tiếng gà trưa in đậm trong tâm trí của người cháu, mang những hạnh phúc của thời thơ ấu, gửi gắm cả tình bà cháu thật sâu sắc.
Khổ thơ cuối như một lời lí giải của người cháu – người chiến sĩ về mục đích chiến đấu:
Từ “vì” được điệp lại tới bốn lần nhấn mạnh vào mục đích chiến.Có thể thấy rằng, đó đều là những mục đích cao cả. Từ tình yêu tổ quốc, tình yêu xóm làng hay tình yêu dành cho bà. Vậy là bà là một trong những lý do để cháu chiến đấu đem lại hòa bình cho đất nước cũng là cho bà.
Khi đọc “Tiếng gà trưa”, chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh của mình trong đó. Từ đó, mỗi người thêm yêu mến, thêm trân trọng người bà của mình nhiều hơn.
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa – Mẫu 10Bài thơ “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh đã gợi nhắc cho người đọc những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ, cũng như tình cảm bà cháu đầy sâu sắc.
Khi đọc bài thơ, mỗi người đều cảm thấy như được trở về tuổi thơ. Âm thanh tiếng gà trưa vốn đã rất quen thuộc ở làng quê Việt Nam xưa. Ở khổ thơ đầu tiên, Xuân Quỳnh đã khắc họa rõ nét, chân thực và sâu sắc âm thanh của tiếng gà trưa trên đường hành quân:
Có thể thấy, nhân vật trữ tình trong bài là một người chiến sĩ đã xa nhà nhiều năm, trên đường hành quân xa xôi, anh được dừng chân bên xóm nhỏ để nghỉ ngơi. Bất ngờ, tiếng gà trưa vang lên: “Cục… cục tác… cục ta” đã khiến anh nhớ về quá khứ.
Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ, từ “nghe” được lặp lại nhiều ba lần như muốn nhấn mạnh vào tâm trạng bồi hồi, xúc động của nhân vật trữ tình khi nghe thấy âm thanh của tiếng gà trưa.
Đến những câu thơ tiếp theo, Xuân Quỳnh đã đưa chúng ta về một thế giới tuổi thơ thật đẹp đẽ của người lính khi được sống bên bà:
Bà mang những phẩm chất đẹp đẽ của người Việt Nam. Hình ảnh đôi bàn tay chai sần của bà hiện lên thật đẹp.
Bà luôn lo lắng trời làm sương muối khiến đàn gà đổ bệnh. Bởi vậy bà mong sao cho mưa thuận gió hòa, thời tiết thuận lợi để đàn gà có thể lớn lên khỏe mạnh, cuối năm bà có thể bán chúng đi để mua cho cháu một bộ quần áo mới để đón Tết.
Tiếng gà trưa còn gợi cho cháu những giấc mơ về hạnh phúc:
Có lẽ, với cháu, hạnh phúc chẳng hiện hữu ngay ở những điều bình dị, giản đơn nhất trong cuộc sống đời thường.
Khổ thơ cuối cùng là lời khẳng định đầy mạnh mẽ của người chiến sĩ:
Biện pháp tu từ điệp ngữ được sử dụng – từ “vì” lặp lại nhằm nhấn mạnh vào mục đích chiến đấu. Khi trưởng thành, cháu tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trước hết đó là vì lòng yêu đất nước – “vì lòng yêu Tổ quốc”, sau đó là vì tình yêu quê hương – “yêu xóm làng thân thuộc”. Và hơn hết đó còn là vì bà – “Bà ơi, cũng vì bà”. Tiếng gọi “Bà ơi” vang lên thật trìu mến, yêu thương. Cháu chiến đấu cũng vì mong muốn có thể đem lại cuộc sống hòa bình cho bà. Điều này gợi cho chúng ta những ấn tượng thật tốt đẹp về hình ảnh người chiến sĩ.
Như vậy, “Tiếng gà trưa” với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi đã giúp người đọc cảm nhận được tình bà cháu thật đẹp đẽ. Qua đó, chúng ta cũng hiểu hơn về vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh.
Cập nhật thông tin chi tiết về Biểu Cảm Về Mùa Thu ❤️️ 16 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay Nhất trên website Vtlx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!