Bạn đang xem bài viết Phép Chia Cho Số Có Ba Chữ Số Lớp 3 Và Bài Tập Vận Dụng được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Vtlx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Đầu tiên các em cần thực hiện phép chia theo thứ tự từ trái qua phải lần lượt:
357 chia cho số 210 sẽ được 1 viết 1 trước
Sau đó lấy 1 nhân với 0 và bằng 0, lấy 7 trừ đi 0 bằng 7 ta viết 7
Tiếp đến lấy 1 nhân với 1 và lấy 5 trừ đi 1 còn 4 ta viết 4
1 nhân với 2 bằng 2 và lấy 3 trừ đi 2 còn 1 viết 1
Tiếp theo các em hãy hạ số 0 khi đó ta được số 1470 chia cho số 210 được 7 và viết 7
Lấy 7 nhân với 0 bằng 0, 0 trừ 0 bằng chính nó
7 nhân với 1 bằng 7 và lấy 7 trừ đi 7 bằng 0
Tiếp tục lấy 7 nhân 2 bằng 14 và lấy 14 trừ 14 bằng 0
Như vậy đối với phép chia lớp 3 có 3 chữ số 3570:210 thì kết quả sẽ bằng 17, đây được gọi là phép chia hết.
Ngoài ra các em còn được làm quen với một dạng nữa đó là phép chia có dư lớp 3 có 3 chữ số, đối với phép toán này các em sẽ thực hiện như sau:
Ta xét một ví dụ:
Tính 178 : 3 = ?
Để thực hiện cách chia 3 chữ số cho 1 chữ số này chúng ta sẽ làm như sau:
Lượt chia đầu tiên, các em sẽ thực hiện chia từ hàng trăm trước. Tuy nhiên 1 sẽ không thể chia hết được cho 3, do vậy mà ở lượt chia đầu tiên các em được phép lấy chữ số liền sau để thực hiện phép chia.
Ta có 17 chia 3 sẽ được 5, viết 5. Sau đó lấy 5 nhân 5 bằng 15, lấy 17 trừ 15 còn 2.
Ở lượt chia thứ 2 các em hãy hạ 8 xuống và ta được 28, 28 chia 3 sẽ bằng 9 lấy 9 nhân 3 bằng 27. Cuối cùng lấy 28 trừ 27 bằng 1, khi đó phép chia 178 : 3 sẽ dư 1.
Khi thực hiện cách chia số có 3 chữ số các em học sinh cần nắm một số điểm sau đây:
Cần đặt tính theo đúng cột, đúng vị trí và đúng số của các số bị chia và số chia, thương.
Thực hiện các phép tính từ trái sang phải, từ hàng trăm hàng chục rồi mới đến hàng đơn vị.
Mỗi một lần thực hiện phép chia 3 chữ số đều phải trải qua 3 bước đó là chia, nhẩm và trừ.
Bài 2: Thực hiện phép tính:
Advertisement
Một số dạng toán về cách chia 3 chữ số lớp 3
Bài 4: Thực hiện phép tính chia hết sau đây:
Bài 5: Khối lớp 3 của trường tiểu học B có 8 lớp và tổng cộng số học sinh là 152 em, vậy mỗi một lớp sẽ có tất cả bao nhiêu em học sinh?
Bài 6: Bạn An có 118 viên bi, bạn Ngọc có 56 viên bi, vậy làm sao để có được số bi ở 6 hộp đều bằng nhau?
Bài 7: Một năm có tới 365 ngày và một tuần có 7 ngày, vậy một năm sẽ có tất cả là bao nhiêu tuần?
Bài 8: Có 2 cửa hàng bán gạo mỗi một ngày đều nhập về 6375kg gạo, trung bình trong ngày thứ nhất cửa hàng đầu tiên đã bán được 425kg gạo, cửa hàng thứ 2 bán được 490kg gạo. Vậy cả 2 cửa hàng sẽ mất bao nhiêu ngày mới bán hết được số gạo đó và có còn dư hay không?
Lưu ý: Với những dạng bài tập này trước hết các em học sinh cần đọc kỹ đề bài, phân tích các số liệu từ đề bài để tìm ra được lời giải chính xác. Với những dạng toán tìm giá trị của một nhóm hoặc của số nhóm tạo thành các em nên thực hiện phép tính chia.
Toán 6 Bài 3: Phép Cộng Và Phép Trừ Hai Số Nguyên Giải Toán Lớp 6 Trang 63, 64 – Tập 1 Sách Chân Trời Sáng Tạo
Qua đó, cũng giúp các em thực hiện được phép cộng các số nguyên, vận dụng các tính chất của phép cộng các số nguyên để tính nhanh, tính nhẩm một cách hợp lí, nhanh chóng giải các bài tập Bài 3 Chương 2: Số nguyên trong sách Toán 6 tập 1 Chân trời sáng tạo. Mời các em cùng tải miễn phí:
Giải Toán 6 Chân trời sáng tạo Thực hành Thực hành 1Thực hiện các phép tính sau:
a) 4 + 7;
d) (+99) + (+11);
b) (-4) + (-7);
e) (-65) + (-35).
c) (-99) + (-11);
Gợi ý đáp án:
a) 4 + 7 = 11;
b) (-4) + (-7) = – (4 + 7) = -11;
c) (-99) + (-11) = – (99 + 11) = -110;
d) (+99) + (+11) = 99 + 11 = 110;
e) (-65) + (-35) = – (65 + 35) = -100.
Thực hành 2Thực hiện các phép tính sau:
Gợi ý đáp án:
a) 4 + (-7) = – (7 – 3) = – 3
b) (-5) + 12 = 12 – 5 = 7
c) (-25) + 72 = 72 – 25 = 47
d) 49 + (-51) = – (51 – 49) = -2
Thực hành 3Thực hiện các phép tính sau:
a) 23 + (-77) + (-23) + 77; b) (-2 020) + 2 021 + 21 + (-22).
Gợi ý đáp án:
a) 23 + (-77) + (-23) + 77
= [23 + (-23)] + [(-77) + 77] (tính chất giao hoán và kết hợp)
= 0 + 0
= 0.
b) (-2023) + 2023 + 21 + (-22)
= [(-2023) + (-22)] + ( 2023 + 21) (tính chất giao hoán và kết hợp)
= (-2042) + 2042
= 0.
Thực hành 4Thực hiện các phép tính sau:
a) 6 – 9;
b) 23 – (-12);
c) (-35) – (-60);
d) (-47) – 53;
e) (-43) – (-43).
Gợi ý đáp án:
a) 6 – 9 = 6 + ( -9) = -3
b) 23 – (-12) = 23 + 12 = 35
c) (-35) – (-60) = (-35) + 60 = 25
d) (-47) – 53 = (-47) + (-53) = – 100
e) (-43) – (-43) = (-43) + (43) = 0
Thực hành 5Tính T = – 9 + (-2) – (-3) + (-8).
Gợi ý đáp án:
T = – 9 + (-2) – (-3) + (-8)
= [-9 – (-3)] + [(-2) + (-8)]
= [ – 9 + 3] + (- 10)
= -6 + (-10)
= -16
Giải Toán 6 Chân trời sáng tạo Vận dụng Vận dụng 1Bác Hà là khách quen của cửa hàng tạp hóa nhà bác Lan nên có thể mua hàng trước, trả tiền sau. Hôm qua bác Lan đã cho bác Hà nợ 80 nghìn đồng, hôm nay bác Hà lại được bác Lan cho nợ thêm 40 nghìn đồng nữa. Em hãy dùng số nguyên để giúp bác Lan ghi vào sổ số tiền bác Hà còn nợ bác Lan.
Gợi ý đáp án:
Bác Hà nợ bác Lan 80 nghìn đồng được biểu diễn là: – 80 (nghìn đồng).
Bác Hà nợ tiếp bác Lan 40 nghìn đồng được biểu diễn là: – 40 (nghìn đồng).
Tổng số tiền bác Hà nợ bác Lan là: (-80) + (-40) = – (80 + 40) = -120 (nghìn đồng).
Vận dụng 2Thẻ tín dụng trả sau của bác Tám đang ghi nợ 2 000 000 đồng, sau khi bác Tám nộp vào 2 000 000 đồng thì bác Tám có bao nhiêu tiền trong tài khoản? Hãy dùng số nguyên để giải thích.
Gợi ý đáp án:
Thẻ tín dụng đang ghi nợ 2 000 000 đồng được biểu diễn là: – 2 000 000 (đồng).
Bác Tám nộp vào tài khoản 2 000 000 đồng được biểu diễn là: + 2 000 000 (đồng).
Số tiền bác Tám có trong tài khoản là: (+ 2 000 000) + (-2 000 000) = 0 (đồng).
Vận dụng 3Một tòa nhà có tám tầng được đánh số theo thứ tự 0 (tầng mặt đất), 1, 2, 3, …, 7 và ba tầng hầm được đánh số -1; -2; -3. Em hãy dùng phép cộng các số nguyên để diễn tả hai tình huống sau đây:
Advertisement
a) Một thang máy đang ở tầng – 3, nó đi lên 5 tầng. Hỏi thang máy dừng lại ở tầng mấy?
b) Một thang máy đang ở tầng 3, nó đi xuống 5 tầng. Hỏi thang máy dừng lại ở tầng mấy?
(Ở một số tòa nhà, tầng mặt đất còn được gọi là tầng G).
Gợi ý đáp án:
a) Ta có:
(-3) + 5 = 5 – 3 = 2
b) Ta có:
3 + (- 5) = – (5 – 3) = – 2
Giải Toán 6 Chân trời sáng tạo trang 63, 64 tập 1 Bài 1Không thực hiện phép tính, tìm dấu thích hợp cho dấu ? ở bảng sau:
a
b
Dấu của (a+b)
25 46 ?
-51 -37 ?
-234 112 ?
2 027 -2 021 ?
Gợi ý đáp án:
a
b
Dấu của (a+b)
25 46 +
-51 -37 –
-234 112 –
2 027 -2 021 +
Bài 2Thực hiện các phép tính sau:
a) 23 + 45;
d) 15 + (-14);
b) (-42) + (-54);
e) 33 + (-135).
c) 2 025 + (-2 025);
Gợi ý đáp án:
a) 23 + 45 = 68
c) 2 025 + (-2 025) = 0
e) 33 + (-135) = – (135 – 33) = 102
b) (-42) + (-54) = – (42 + 54) = – 96
d) 15 + (-14) = (15 – 14) = 1
Bài 3Em hãy dùng số nguyên âm để giải bài toán sau:
Một chiếc tàu ngầm đang ở độ sâu 20 m, tàu tiếp tục lặn thêm 15 m. Hỏi khi đó tàu ngầm ở độ sâu là bao nhiêu mét?
Gợi ý đáp án:
Tàu ngầm đang ở độ sâu 20 m được biểu diễn: – 20 (m)
Tàu tiếp tục lặn thêm 15 m được biểu diễn: – 15 (m)
Vậy khi đó tàu ngầm ở độ sâu 35 m.
Bài 4Một toà nhà có 12 tầng và 3 tầng hầm (tầng G được đánh số là tầng 0), hãy dùng phép cộng các số nguyên để diễn tả tình huống sau đây: Một thang máy đang ở tầng 3, nó đi lên 7 tầng và sau đó đi xuống 12 tầng. Hỏi cuối cùng thang máy dừng lại tại tầng mấy?
Gợi ý đáp án:
Ta có: 3 + 7 + (-12) = – 2
Vậy cuối cùng thang máy dừng lại tại tầng (-2).
Bài 5Thực hiện các phép tính sau:
a) 6 – 8;
d) 0 – 7;
b) 3 – (-9);
e) 4 – 0;
c) (-5) – 10;
g) (-2) – (-10).
Gợi ý đáp án:
a) 6 – 8 = -2
c) (-5) – 10 = – (10 + 5) = -15
e) 4 – 0 = 4
b) 3 – (-9) = 3 + 9 = 12
d) 0 – 7 = -7
g) (-2) – (-10) = (-2) + 10 = 10 – 2 = 8
Bài 6Tính nhanh các tổng sau:
a) S = (45 – 3 756) + 3 756;
b) S = (-2 021) – (199 – 2 021).
Gợi ý đáp án:
a) S = (45 – 3 756) + 3 756 = 45 – 3 756 + 3 756 = 45 + [(– 3 756) + 3 756] = 45
b) S = (-2 021) – (199 – 2 021) = (-2 021) + (-199) + 2 021 = – 199
Bài 7Bỏ dầu ngoặc rồi tính:
a) (4 + 32 + 6) + (10 – 36 – 6);
b) (77 + 22 – 65) – (67 + 12 – 75);
c) – (-21 + 43 + 7) – (11 – 53 – 17).
Gợi ý đáp án:
a) (4 + 32 + 6) + (10 – 36 – 6) = 4 + 32 + 6 + 10 – 36 – 6 = 10
b) (77 + 22 – 65) – (67 + 12 – 75) = 77 + 22 – 65 – 67 – 12 + 75 = 30
c) – (-21 + 43 + 7) – (11 – 53 – 17) = 21 – 43 – 7 – 11 + 53 + 17 = 30
Bài 8Archimedes (Ác-si-mét) là nhà bác học người Hi Lạp, ông sinh năm 287 TCN và mất năm 212 TCN.
a) Em hãy dùng số nguyên âm để ghi năm sinh năm mất của Archimedes.
b) Em hãy cho biết Archimedes mất năm bao nhiêu tuổi?
Gợi ý đáp án:
a) Năm sinh của Archimedes: – 287
Năm mất của Archimedes: – 212
b) Ta tính tuổi của Archimedes bằng: (-212) – (-287) = (-212) + 287 = 75 (tuổi)
* Vậy Archimedes mất năm 75 tuổi.
Toán Lớp 4: Biểu Thức Có Chứa Ba Chữ Trang 43 Giải Bài Tập Toán Lớp 4 Trang 43, 44
Bài 1: a) 22; b) 36
Bài 2: a) 90; b) 0
Bài 3: a) 17; 17; b) 3; 3; c) 20; 30
Bài 4:
a) P = a + b + c
b) 12 (cm); 25 (cm); 18 (dm)
Tính giá trị của a + b + c nếu:
a) a = 5, b = 7, c = 10;
b) a = 12, b = 15, c = 9
Gợi ý đáp án:
a) Thay số vào chữ ta có:
Tham Khảo Thêm:
Bài tập về các thì môn tiếng Anh lớp 8 Đề ôn tập tiếng Anh 8 có đáp án
a + b + c = 5 + 7 + 10 = 22
b) Thay số vào chữ ta có:
a + b + c = 12 + 15 + 9 = 36
a × b × c là biểu thức có chứa ba chữ.
Nếu a = 4, b = 3 và c = 5 thì giá trị của biểu thức a × b × c là:
a × b × c = 4 × 3 × 5 = 12 × 5 = 60
Tính giá trị của a × b × c nếu:
a) a = 9, b = 5 và c = 2
b) a = 15, b = 0 và c = 37
Gợi ý đáp án:
Tính như sau:
a) a × b × c = 9 × 5 × 2 = 45 × 2 = 90
Advertisement
b) a × b × c = 15 × 0 × 37 = 0 × 37 = 0
Cho biết m = 10, n = 5, p = 2, tính giá trị của biểu thức:
a) m + n + p
m + (n + p)
b) m – n – p
m – (n + p)
c) m + n × p
(m + n) × p
Gợi ý đáp án:
a) m + n + p = 10 + 5 + 2 = 17
m + (n + p) = 10 + (5 + 2) = 10 + 7 = 17
b) m – n – p = 10 – 5 – 2 = 3
m – (n + p) = 10 – (5 + 2) = 10 – 7 = 3
c) m + n × p= 10 + 5 × 2 = 10 + 10 = 20
(m + n) × p= (10 + 5) × 2 = 15 × 2 = 30
Độ dài các cạnh của hình tam giá là a, b, c
a) Gọi P là chu vi của hình tam giác.
Viết công thức tính chu vi P của hình tam giác đó.
b) Tính chu vi của hình tam giác biết:
a = 5cm, b = 4cm và c = 3cm;
a = 10cm, b = 10cm và c = 5cm;
a = 6dm, b = 6dm và c = 6dm;
Gợi ý đáp án:
a) Chu vi của hình tam giác bằng tổng độ dài ba cạnh của tam giác đó.
P = a + b + c
Trong đó: a, b, c là độ dài các cạnh (cùng đơn vị đo)
b) Chu vi của hình tam giác
P = a + b +c = 5 + 4 + 3 = 12 (cm)
P = a + b +c = 10 + 10 + 5 = 25 (cm)
P = a + b +c = 6 + 6 + 6 = 6 × 3 = 18 (dm)
Bài Viết Số 3 Lớp 8 Đề 3: Giới Thiệu Đôi Dép Lốp Trong Kháng Chiến Dàn Ý & 13 Mẫu Bài Viết Số 3 Lớp 8 Đề 3
Thuyết minh đôi dép lốp trong kháng chiến hay nhất
Dàn ý giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến
Thuyết minh về đôi dép lốp
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến (12 mẫu)
Dàn ý giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiếnI. Mở bài:
Nếu ai đã từng đến Bảo tàng lịch sử Việt Nam hẳn sẽ không quên một vật rất đơn sơ mà giàu ý nghĩa.
Đó là đôi dép lốp cao su đã gắn bó thân thiết với cán bộ chiến sĩ và cả vị lãnh tụ Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Là vật chứng tiêu biểu cho nhân cách và cả một quá trình gian khổ của quân nhân Việt Nam.
II. Thân bài:
1. Lịch sử ra đời:
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Cách mạng nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Chính trong hoàn cảnh đầy gian khổ và thiếu thốn ấy mà tình yêu nước và óc sáng tạo của nhân dân ta được phát huy. Chiếc mũ nan lớp vải, áo trấn thủ và đặc biệt là đôi dép được cắt từ lốp và ruột xe ôtô cũ đã qua sử dụng làm hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thật giản dị, gần gũi và thân thương.
2. Hình dáng, cấu tạo, chất liệu:
Đôi dép lốp có hình dáng giống những đôi dép bình thường.
Quai dép được làm từ săm (ruột) xe ô tô đã qua sử dụng. Hai quai trước bắt chéo nhau, hai quai sau song song, vắt ngang cổ chân, bề ngang mỗi quai khoảng 1,5cm.
Đế dép được làm từ lốp (vỏ) của xe ôtô hoặc được đúc bằng cao su. Đế được đục những cái lỗ để xỏ quai qua. Điều kì lạ là giữa quai và đế được cố định chắc chắn vào nhau không bằng bất cứ một thứ keo kết dính nào mà nhờ vào sự giãn nở của cao su.
Dưới đế dép có những rãnh hình thoi để các chiến sĩ đi đường lầy lội cho đỡ trơn.
3. Nét đặc biệt, công dụng:
Dép lốp cao su dễ làm, giá thành lại rẻ và nhất là dễ sử dụng trong mọi địa hình, dù đèo cao hay suối sâu, đường lầy lội hay đất bụi đều đi rất dễ dàng. Do các quai dép ôm vừa khít với bàn chân nên chiến sĩ ta đi không biết mỏi vì cảm giác rất nhẹ
Dép lốp rất tiện sử dụng, cả thời tiết nắng nóng và mưa dầm. Trời nắng thì thoáng mát, mưa dầm thì không lo sũng nước. Dép lốp cũng dễ vệ sinh. Khi dính bùn đất chỉ cần rửa nước là sạch. (So sánh với sự bất tiện khi mang giày: Trời nắng thì đổ mồ hôi khó chịu, trời mưa thì ướt sũng dễ sinh các bệnh ngoài da. Đặc biệt điều kiện khó khăn lúc bấy giờ thì khó cung cấp đủ giày cho các chiến sĩ. Dép lốp khắc phục được tất cả các nhược điểm này).
Dép lốp lại rất bền phù hợp với điều kiện khó khăn của cuộc kháng chiến còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Một thời đôi dép lốp gắn liền với hình ảnh Bác Hồ.
4. Bảo quản:
Dép lốp không chỉ rẻ, bền, dễ sử dụng mà còn rất dễ bảo quản:
Để dép lốp được bền thì các chiến sĩ ta không để chúng ở nơi có nhiệt độ cao.
Đi đường dính bùn đất về nên rửa sạch.
III. Kết bài:
Ngày nay, tuy dép lốp không còn phổ biến như xưa nhưng nó nhắc nhở chúng ta về một thời đã qua với biết bao cay đắng, khổ cực mà cũng thật hào hùng, oanh liệt. Dép lốp đã làm nên vẻ đẹp giản dị, thanh tao của anh bộ đội cụ Hồ với lòng yêu thương đất nước vô bờ. Và cũng chính đôi dép ấy đã góp phần giúp dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ của bọn xâm lược và đôi dép lốp là một chứng nhân lịch sử trong một hành trình dài chống giặc ngoại xâm.
Thuyết minh về đôi dép lốpĐôi dép lốp là một vật hết sức gần gũi với người dân Việt Nam thuở xưa, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc. Đôi dép lốp còn ghi dấu trong trái tim mỗi chúng ta cùng với hình ảnh Bác Hồ- người cha già, vị lãnh tụ vĩ đại mà giản dị.Đôi dép lốp còn có tên khác là đôi dép Bình- Trị- Thiên, là một vật dụng quen thuộc, một thứ quân trang quan trọng gắn với anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước.
Nhiều người cho rằng ý tưởng sáng tạo ra đôi dép lốp là của đại tá Hà Văn Lâu nhưng ông cũng thừa nhận mình chỉ vận dụng cách thức những người phu xe dùng mo cau hay ruột xe kéo làm dép.Đôi dép lốp được tái chế từ săm, lốp ô tô đã hỏng, vừa tiện lợi vừa tiết kiệm. Đôi dép gồm có quai dép và đế dép. Đế dép cắt từ lốp ô tô còn quai dép làm từ săm xe, đều có màu đen. Độ dài của dép phụ thuộc vào kích cỡ của người đi chân to hay bé. Dép gồm có bốn quai giống kiểu xăng đan, quai dép được đo cắt rất khéo, không dày không mỏng.
Quai dép được cố định lại bằng cách xuyên qua những lỗ đục là 8 cái khe được rạch trên dép. Vì quai dép dễ tuột nên người đi bao giờ cũng có một díp bằng sắt hay bằng tre để luồn lại quai dép.Sự tiện lợi và tiết kiệm của đôi dép làm nó trở nên phổ biến trong hai cuộc chiến tranh, trở thành một biểu tượng nổi tiếng của các anh bộ đội cụ Hồ. Đôi dép nhẹ và êm giúp người đi có thể lội nước và bùn một cách dễ dàng, bảo vệ bàn chân lành lặn ngay cả khi giẫm lên mảnh chai hay thép gai, lửa đỏ.
Đôi dép đi qua bao vùng miền, cùng các anh trèo đèo lội suối mà vẫn bền chắc như thường, có khi chỉ cần thay quai dép là lại đi được tiếp. Đôi dép như trơ như lì thách thức với thời gian, thể hiện đức tính giản dị, tiết kiệm đáng quý của người lính cách mạng trong tình cảnh đất nước còn đói nghèo, lạc hậu. Đôi dép lốp còn gắn liền với sự giản dị thanh cao của Bác Hồ. Bác đi đôi dép lốp khi thăm hỏi đồng bào, nhân dân. Ngay cả khi ra nước ngoài, gặp các nguyên thủ quốc gia trên thế giới, đôi dép lốp cũng không khi nào tách rời khỏi Bác.
Đôi dép lốp đã cùng Bác bôn ba khắp mọi nơi, trở thành một huyền thoại đối với người dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đối với Bác, đôi dép lốp còn có ý nghĩa đặc biệt bởi vì nó in dấu biết bao kỉ niệm, cùng Bác vào sinh ra tử trên con đường dẫn dắt nhân dân ta thoát khỏi kiếp bùn đen nô lệ, từng bước giành lại độc lập, hòa bình, tự chủ cho đất nước.Đôi dép tưởng chừng như đơn sơ ấy đã trở thành cảm hứng nghệ thuật cho biết bao văn nhạc sĩ. Tố Hữu đã từng viết về đôi dép Bác Hồ:
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Bài thơ “Đôi dép Bác Hồ” được nhạc sĩ Văn An phổ nhạc đã đi vào lòng những người dân Việt Nam hơn nửa thế kỉ. Hiện tại, người ta nhắc đến đôi dép lốp như nhắc về một quá khứ xa xưa, lắm gian truân, khó khăn nhưng cũng thật anh dũng, kiên cường. Đôi dép giản dị mang trong nó cả một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc, gợi nhắc chúng ta về những năm tháng không thể nào quên.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 1(Tố Hữu)
Đôi dép lốp vốn là một vật dụng gần gũi và phổ biến ở nước ta nửa cuối thế kỉ 20. Dép lốp gắn bó với Bác Hồ và các chiến sĩ trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, tuy dép lốp không còn được sử dụng rộng rãi nhưng nó mãi mãi là niềm tự hào lớn lao của dân tộc ta.
Khái niệm: Dép lốp là một loại dép đơn giản được làm từ săm và lốp xe ô tô. Loại dép này khá phổ biến ở những nước thuộc thế giới thứ ba (các nước kém phát triển) do tính đơn giản, dễ làm, rẻ tiền và độ bền của chúng. Có nhiều tư liệu khẳng định đôi dép lốp đầu tiên ra đời năm 1947, khi cuộc chiến chống thực dân pháp đang trong thời kì khốc liệt.Năm 1947, khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đi vào giai đoạn quyết liệt, quân ta cần rất nhiều quân dụng nhưng chưa tìm được nguồn viện trợ. Đại tá Hà Văn Lâu từ những chiếc lốp ô tô cũ đã chế tạo ra những đôi dép lốp kiểu sandal tiện lợi, đi nhẹ và êm, lội nước và bùn rất thuận tiện, bảo vệ bàn chân trong hầu hết trường hợp giẫm lên cả mẻ chai, thép gai, lửa đỏ.
Dép lốp cao su ra đời đáp ứng yêu cầu quân dụng đang hết sức thiếu thốn của bộ đội ta thời kì đó.
– Hình dáng: giống những đôi dép sandal bình thường.
– Màu sắc: đen.
– Chất liệu: săm, lốp cao su ô tô. Khi cần số lượng nhiều người ta đã sản xuất hàng loạt theo mẫu thay vì tận dụng săm lốp ô tô cũ.
Dép lốp cao su có cấu tạo hết sức đơn giản bao gồm: đế dép, quai dép, và dụng cụ xâu quai. Một phần lốp ô tô cũ được cắt ra làm đế (thường là phần giữa) như hình dáng của bàn chân, phần ngoài của lốp (tiếp xúc với đường) đặt phía dưới. Nhờ tính đàn hồi và chịu lực tốt của cao su nên dép lốp cao su rất bền chắc, sử dụng liên tục trong nhiều năm mà không hư hỏng. Quai của dép lốp được cắt ra từ săm ô tô cũ, hẹp 1-1.5 cm, dài tùy ý sao cho phù hợp với chân. Quai dép mềm mỏng ôm sát vào chân chứ không bọc kín như giày hay các loại dép khác.
Để xỏ quai, người ta đục hay rạch trên đó 8 cái khe ở mép (là 8 đầu nối quai và đế). Thật kì diệu, dép lốp là loại dép duy nhất trên thế giới có gắn kết quai và đế mà không cần bất kì một loại keo dán nào. Xâu quai vào lỗ bằng cách dùng rút dép, kẹp đầu dây, luồn qua khe trên đế. Rút dép là một mảnh kim loại mảnh, hoặc thanh tre dài, gập đôi lại. Dép lốp cao su có vai trò bảo vệ đôi bàn chân khi di chuyển. Đó cũng là tính năng cơ bản của giày và dép. Dép cao su chính là phương tiện được trang bị chủ yếu cho bộ đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến, làm nên những chiến thắng thần kì, được thế giới hết sức ca ngợi.
Dép lốp cao su tỏ ra phù hợp với mọi địa hình và điều kiện thời tiết. Đặc biệt là địa hình đồi núi bởi tính ma sát cao, độ bám dính lớn, tính đàn hồi của cao su giúp dép ôm chặt vào bàn chân. Hay địa hình có nhiều gai nhọn, đá sỏi gồ ghề dép cao su cũng bảo vệ tố đôi bàn chân người dùng. Đôi dép cao su giúp các chiến sĩ hành quân nhanh bởi tính gọn nhẹ, mau khô khi thấm nước, dễ bảo quản và sửa chữa. Tuy nhiên ở địa hình bùn trơn, dép lốp cao su lại rất bất tiện bởi dễ trơn trượt do độ ma sát của cao su giảm khi bị thấm nước.
Dép lốp cao su rất dễ sản xuất. Chỉ cần một chiếc máy cắt cao su với vài người thợ là có thể sản xuất ra hàng loạt đôi dép trong một thời gian ngắn. Sản xuất dép lốp cao su không cần nguyên liệu mới nên tiết kiệm được nhiều chi phí. Bởi thế, dép có giá thành rất rẻ.
Sử dụng và bảo quản:
Khi mang dép, phải xiết quai ôm chặt vào chân để tránh bị tuột ra ngoài. Nên giữa bàn chân đúng tư thế để tránh bị trật dép. Không nên để dép gần lửa nóng bởi chất liệu cao su rất dễ bị biến dạng ở nhiệt độ cao. Cũng không nên đi dép ở nơi nhiều bùn lầy, trơn trợt. Trong điều kiện ẩm nước, dép lốp cao su có độ ma sát rất thấp, gây nguy hiểm cho người dùng.
Bảo quản dép ở điều kiện khô, thoáng và thường xuyên vệ sinh lau chùi để dép được bền lâu. Khi không dùng nữa thì nên cất dép vào hộp kín để giữ gìn dép được bền lâu hơn.
Đôi dép lốp trong tinh thần văn hóa Việt Nam: Sự tiện lợi của đôi dép lốp dẫn đến việc nó trở nên phổ biến tại Việt Nam trong cả 2 cuộc chiến tranh, trở thành một biểu tượng nổi tiếng của những người Cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước.
Hình ảnh đôi dép cao su đi vào thi ca, âm nhạc, hội họa và các loại hình nghệ thuật khác như một niềm tự hào của con người Việt Nam, là biểu tượng của tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam thế kỉ 20. Mặc dù dép lốp ngày nay không còn phổ biến tại Việt Nam như một biểu tượng của gian khổ, nhưng dép lốp vẫn còn được bán rất nhiều như một vật lưu niệm của khách du lịch hoặc những nhà sưu tập, thậm chí đôi khi được xem như một xu hướng thời trang của giới trẻ.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 2Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đầy gian khổ của dân tộc Việt Nam, những người chiến sĩ Cách mạng đã phải trải qua các cuộc chiến ác liệt, một mất một còn vô cùng khốc liệt. Cuộc chiến đấu gian nan là thế nhưng cuộc sống sinh hoạt lại vô cùng thiếu thốn, hành trang mang theo bên người chỉ có chiếc võng, chiếc bát ăn cơm, balo con cóc, chiếc mũ tai bèo. Và một trong những hành trang không thể thiếu của mỗi người lính- đó là đôi dép lốp.
Dép lốp là loại dép được làm ra từ những chiếc săm, lốp. Loại dép này được sử dụng khá phổ biến ở nước ta trong thời kì kháng chiến, khi kinh tế còn nghèo nàn,cuộc sống vật chất còn nhiều thiếu thốn.Những đôi dép lốp được sử dụng phổ biến vào thời kì đó bởi nguyên liệu dễ kiếm, dễ làm, hơn nữa nó còn có độ bền cao. Có thể theo chân những người lính từ dốc này qua đèo nọ mà không bị hỏng.
Cách chế tạo những đôi dép lốp cũng khá đơn giản, người ta sẽ cắt một phần của lốp ô tô ra để làm đế dép và phần đế này thường được lấy từ phần chính giữa của chiếc lốp vì nó bằng phẳng, không gây đau, bất tiện cho đôi chân. Phần ngoài của lốp thì được đặt phía dưới, khi di chuyển thì phần này sẽ ma sát với mặt đường.
Để xỏ quai người ta đục trên diềm của đế khoảng từ sáu đến tám cái lỗ nhỏ. Quai của dép lốp thì được cắt ra từ những chiếc săm ô tô cũ, chiều rộng của những chiếc quai này khoảng từ một đến một phẩy năm xen ti mét, chiều dài tùy ý sao cho hợp với đôi chân người đi. Quai được xỏ vào lỗ bằng cách dùng một thanh kim loại nhỏ, giúp luồn dây qua đế một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Về người đầu tiên phát minh,chế tạo ra đôi dép lốp,nhiều người cho rằng đó chính là đại tá Hà Văn Lâu. Tuy nhiên,khi được hỏi thì ông cũng thừa nhận mình chỉ sử dụng và bắt chước lại những người phu xe dùng mo cau hay vỏ ruột xe kéo làm những đôi dép. Từ đó ông mới bắt đầu nảy sinh ý tưởng làm những đôi dép như của những người phu xe, nhưng bằng một chất liệu mới, đó là từ lốp ô tô cũ.
Tên gọi của dép lốp cũng có nhiều cách gọi khác nhau như: dép cao su, dép râu,dép Bình Trị Thiên. Dép lốp sử dụng nhiều trong chiến tranh nên nó đã trở thành một biểu tượng của những người chiến sĩ Cách mạng và vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh cũng thường xuyên sử dụng loại dép này.Vì vậy mà dép lốp còn là một biểu tượng về sự giản dị của Bác.
Ngày nay tuy dép lốp không còn được sử dụng phổ biến nữa do sự ra đời của rất nhiều loại giày dép, với mẫu mã đa dạng, giá thành lại không cao. Tuy nhiên, dép lốp ngày nay cũng được cách tân đi rất nhiều,chất liệu thì không phải từ lốp và săm xe nữa mà nó thường được làm bằng cao su.Loại dép này vẫn là một bộ phận được ưa chuộng và sử dụng, đặc biệt là những người bộ đội về hưu, những người cựu chiến binh khi xưa.
Đôi dép lốp xuất hiện trong cuộc sống của mỗi chúng ta ngày càng khan hiếm nhưng nó đã từng là những kỉ vật có giá trị của mỗi con người, và đặc biệt trong xã hội xưa đôi dép lốp biểu tượng cho sự sung túc nhưng rất giản dị đơn sơ, nó được làm bằng cao su, và bám sát vào chân đi trên chân có cảm giác êm nhưng hơi có cảm giác lặng, nó không chỉ để lại cho con người những giá trị vật chất quan trọng, giá trị mạnh mẽ mà đôi dép lốp để lại cho muôn đời đó là công dụng của nó vô cùng quan trọng và cần thiết cho mỗi người, nó là phương tiện được sử dụng để đi lại và mang những ý nghĩa rất cần thiết và may mắn trong mỗi con người. Hình tượng người lính xuất hiện trong mỗi con người Việt Nam không ai có thể không được biết đến đôi dép có ý nghĩa và giá trị to lớn này.
Nó mang những biểu tượng mạnh mẽ thể hiện được tinh thần chiến đấu, mặc dù nó không hiện đại và đắt tiền nhưng giá trị của nó đến hôm nay phải được coi là một điều có ý nghĩa và trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trong những năm tháng gian nan nó là người bạn đường của mỗi người chiến sĩ cách mạng chúng ta đều được biết đến qua hình ảnh cụ Hồ, người luôn dùng đôi dép này, nó giản dị và rất mộc mạc.
Mỗi người chúng ta đều cần phải trân trọng những giá trị đáng quý của dân tộc đó là những sản phẩm đem lại những giá trị to lớn và cần thiết nhất dành cho mỗi người.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 3Đôi dép lốp được cấu tạo rất sáng tạo và đơn giản nhưng nó đã gắn bó trong hai cuộc kháng chiến ác liệt. Cũng có thể nói nó là niềm tin, là vật dụng gắn bó giúp những chiến sĩ có thêm động lực để chiến đấu.
Dép lốp hay còn gọi là dép cao su, ngày nay nó vẫn còn nhưng đa số để trưng bày chứ rất ít ai mang nó. Dép lốp được cấu tạo rất đơn giản cũng như những đôi dép bình thường khác. Nhưng đặc biệt ở đây, đôi dép có quai dép được làm bằng săm (ruột) xe ô tô cũ. Hai quai trước bắt chéo nhau, 2 quai sau song song vắt ngang cổ chân.Bề ngang mỗi quai khoảng 1.5cm. Quai đươc luồn xuống đế qua các vết rạch vừa khít với quai. Đế dép được làm bằng lốp xe ô tô hỏng hoặc đúc bằng cao su, mặt dưới có xẻ những mảnh hình thoi để đi cho đỡ trơn. Dép lốp cao su dễ làm, giá thành rẻ, tiện sử dụng trong mọi thời tiết nắng, mưa.
Với những vật liệu đơn giản và không tốn nhiều công sức để làm, vật liệu cũng không cần mua. Đây chính là giá trị của đôi dép lốp, nó tiết kiệm được nhiều thứ. Thế nhưng ngày nay thì dép lốp bán với giá rất cao, nhưng chất lượng thì không bằng nhưng đa số được dùng để trưng bày, chứ rất ít ai dùng nó để đi lại.
Đối với Bác Hồ, đôi dép lốp là biểu trưng của tất cả những gì dung dị, mang một bản sắc dân tộc Việt Nam nhuần nhị, sâu xa nhất. Ngay cả quần áo, đồ dùng tiện nghi của Bác cũng đơn sơ, mộc mạc trong đó đôi dép của Bác trở thành một hình tượng thân quen, thắm thiết, nó đã cùng Bác đi đến những chân trời góc bể và nó vô cùng có giá trị trong mắt của chúng ta, trở thành huyền thoại với bạn bè năm châu đối với vị chủ tịch của dân tộc.
Không chỉ có thế với Bác đôi dép lốp hết sức quan trọng. Khi Bác mất rồi nhưng đôi dép vẫn được trưng bày bên lăng của Bác thể hiện sự tôn kính, giá trị của nó đối với Bác. Đó là giá trị của sự giản dị, thanh cao bền bỉ sắc son của Bác đối với đôi dép.
Nói về giá trị của nó thì thật là một đôi dép có ý nghĩa qua hàng ngàn năm lịch sử, nó là biểu tượng của lòng thủy chung son sắt của con người. không chỉ có thế đôi dép lốp là biểu tượng giản dị, thủy chung trong hai cuộc chiến tranh giải phóng đau thương mà oanh liệt của dân tộc ta. Dép lốp đã trở thành biểu tượng của sự giản dị, một đặc trưng của người chiến sĩ cách mạng Việt Nam.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 4Hồi chiến tranh, miền Bắc nghèo lắm. Tất cả các loại dép tạm gọi là “thời trang” thời đó như dép nhựa Tiền Phong, dép Thái Lan (mà sau này ở miền Nam gọi là dép Lào)… đều không thể trang bị cho quân đội được, một phần vì đắt, một phần vì cấu trúc không phù hợp.
Dép gì có thể đạt được cả 3 yêu cầu: rẻ, khá chắc chắn và dễ sử dụng?. Hồi ấy, lốp (vỏ) xe ô tô cũ thải ra rất nhiều mà không thể sử dụng vào việc gì khác (ngoài việc làm đệm chống va cho tàu thủy), thế là có một sáng kiến phát sinh: cắt lốp cũ làm đế, săm (ruột) ỏ tô cũ làm quai. Đôi dép lốp ra đời từ đấy. Loại dép này trong Nam gọi là “dép râu”.
Đôi dép lốp chỉ là một phần rất nhỏ được cắt từ chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị quân và dân ta phục kích tiêu diệt tại một vùng căn cứ địa Việt Bắc năm xưa. Nó được đo cắt rất khéo, không dày cũng không mỏng, quai trước to bản, kiểu quai dép xăng-đan, rất chắc chắn. Dép lốp nhìn không bóng bẩy như giày, nhưng đạt yêu cầu: rẻ, dễ sử dụng và bền. Nhược điểm là đế quá cứng (dễ phỏng chân) hay tuột quai, nên thời đó, trong xâu chìa khóa của mọi người thường có thêm cái “rút quai dép”.
Tuy nhiên nó đã được trang bị cho quân đội cách mạng trong một thời gian dài. Về sau này, khoảng đầu thập niên 1970, bộ đội mới được trang bị dép “đúc”. Nó có cấu trúc giống dép lốp, nhưng đế bằng cao su đúc nên mềm, nhẹ và nhẵn (láng) hơn, quai chắc chắn hơn, người sử dụng thấy dễ chịu hơn.
Điều đáng ngạc nhiên là đôi dép lốp đã trở thành đề tài, nguồn cảm hứng sáng tác của rất nhiều giới văn, nghệ sĩ cả trong và ngoài nước. Đôi dép lốp không chỉ bên cạnh các chiến sĩ trong cuộc sống thường nhật mà còn cùng Bác đi khắp mọi miền của Tổ quốc thân yêu và đến với bầu bạn xa gần trên thế giới. Trong cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, đều có thể sử dụng đôi dép lốp; riêng vào mùa đông, Bác Hồ thường đi thêm đôi tất vải để giữ ấm cho chân.
Khi tới thăm đồng bào, đặc biệt thăm hỏi động viên bà con nông dân. Bác Hồ cũng đi dép lốp, mặc bộ quần áo nâu chàm, trông rất giản dị và gần gũi. Có khi Bác còn tháo dép xách tay, xắn quần đi trên đồng nước bùn lầy cùng với bà con. Đôi dép của Người lúc nào trông cũng sạch sẽ và đen bóng, ở bất kì nơi đâu, nhân dân cũng nói về đôi dép của Bác như một báu vật mà họ muốn chiêm ngưỡng. Đặc biệt là các cháu thiếu nhi, khi Bác tới thăm, chúng đã tìm mọi cách để được sờ tận tay và được tận mắt ngắm nhìn đôi dép của Bác. Rồi đến những chiến sĩ ngoài đảo xa, có dịp Bác về thăm cũng tranh nhau được sửa sang lại chiếc dép cho Bác được chắc chắn hơn.
Đặc biệt, một lần đến thăm Thủ đô Niu Đêli – Ấn Độ, câu chuyện về đôi dép lốp của Bác càng có thêm nhiều điều ngạc nhiên thú vị. Khi Bác tiếp các quan chức cấp cao trong Chính phủ Ấn Độ, họ đều chú ý nhìn vào đôi dép dưới chân Người, họ luôn liếc nhìn với vẻ lạ lùng và rất đỗi trân trọng. Báo chí đặc biệt bài nào cũng nói về đôi dép cao su của Bác như một chuyện lạ, một huyền thoại về một con người tuyệt vời của thế kỉ lúc bấy giờ.
Người dân Ấn Độ đã tỏ rõ lòng ngưỡng mộ đến kì lạ về đôi dép lốp này. Khi Bác Hồ tới thăm một ngôi đền lớn và cố kính của Ấn Độ thì có một chuyện lạ xảy ra. Lúc Bác bước vào trong đền, để lại đôi dép bên ngoài thì bất ngờ có hàng trăm phóng viên báo chí, nhiếp ảnh, quay phim ập đến vây kín đôi dép cao su của Bác. Họ như phục sẵn từ rất lâu rồi, một số phóng viên còn cúi xuống dùng tay sờ, nắn đôi dép tỏ vẻ lạ lùng và trịnh trọng. Sau đó họ vội vàng ghi chép lại những gì mình vừa thấy. Từ những góc độ, cự ly khác nhau, các phóng viên thi nhau bấm máy, họ chen nhau để có được những vị trí thuận lợi. Rồi tiếp theo đó là cảnh đám đông dân chúng kéo đến từ các ngả, ùa vào để được ngắm nghía đôi dép. Có những tấm ảnh chụp đặc tả về đôi dép cao su này với những suy ngẫm khác nhau. Đôi dép đã cùng Bác vào sinh ra tử, nó chất chứa bao kỉ niệm sâu sắc và cảm động không thể nào quên- Kể cả khi đôi dép đã cũ, Bác cũng kiên quyết giữ lại để dùng, không muốn đổi đôi mới. Đức hy sinh cao cả của Bác đã được thể hiện qua câu nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho đất nước được tự do, độc lập, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Có thể nói, đôi dép lốp có một chiều dài lịch sử – qua bao năm tháng – đã gắn bó cùng nhân dân và các chiến sĩ cách mạng từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ cho tới ngày thống nhất, xây dựng đất nước hòa bình.. Đôi dép cao su không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Bác mà với cả dân tộc Việt Nam. Qua hình ảnh đôi dép cao su, cũng cho ta thấy được đức tính giản dị, tiết kiệm đáng quý của người lính cách mạng. Không chỉ có vậy, nó còn chứa đựng bài học bổ ích là bài học làm người, sống sao cho có ích cho xã hội, cho đất nước, luôn biết quý trọng sức lao động, mồ hôi, nước mắt của người dân. Phải luôn quan tâm tới bản chất bên trong chứ không chỉ chú trọng hình thức bên ngoài, cũng như đôi dép cao su tuy cũ nhưng mãi bền vững theo thời gian.
Đôi dép lốp có ý nghĩa vô cùng lớn lao và nhắc nhở chúng ta phải luôn biết nâng niu, trân trọng những giá trị của cuộc sống. Hình ảnh người chiến sĩ bước đi ung dung, thư thái với đôi dép lốp giản dị mà vẫn toát lên vẻ uy nghiêm lạ thường, lúc nào cũng khiến chúng ta ngưỡng mộ.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 5Trong cái tủ kính sang trọng để các đồ kỉ niệm có đôi dép lốp cao su cũ của ông tôi từ thời kì kháng chiến chống Pháp.
Đã mấy lần năn nỉ ông tôi mới mở tủ lấy ra cho tôi xem. Một đôi dép lốp đã cũ mòn mà theo ông tôi kể lại “Nó là người bạn đường của ông trong khoảng 10 năm trong kháng chiến, đã ba lần thay quai còn đế vẫn như cũ”
Đôi dép lốp này có 2 bộ phận đế và quai. Đế dép là miếng cao su cắt ra từ cái lốp xe ô tô đã hỏng, nó đen xì và dày bằng nửa đốt tay. Cầm lên tay thấy nặng nhưng đi vào chân thì rất êm. Do ông tôi đi nhiều nên dưới đế không còn dấu vết gì của cái lốp xe mà chỉ như một miếng cao su hơi cong cong được cắt lượn rất khéo theo hình bàn chân.
Quai dép: Cũng được cắt ra từ cái xăm xe (còn gọi là ruột) chiều ngang chỉ bằng chiều ngang ngón tay còn chiều dài thì theo kích cỡ bàn chân to, nhỏ nên dài hay ngắn.
Điều rất thú vị là loại dép này không cần may khâu gì cả. Người ta chỉ dùng một díp sắt kẹp lấy đầu quai rút vào một lỗ đục sấn.
Nhờ sự đàn hồi của cao su nên nó dính rất chặt vào nhau, đến nỗi đi vấp ngã mà vẫn không bật ra được.
Theo những người phục vụ Bác Hồ, thì Bác thường chỉ đi dép lốp. Người ta kể rằng Bác có đôi dép đi khá lâu đã mấy lần thay quai, đế dép đã mỏng đi rất nhiều và có dấu cả ngón chân trên mặt đế. Mấy người bàn nhau thay cho Bác đôi dép mới. Thấy mất đôi dép Bác biết các chú cần vụ đã giấu đi. Bác đi dép mới mấy ngày rồi gọi các chú lên bảo “thôi các chú trả cho Bác đôi dép cũ, đôi này đi đau chân lắm”. Mọi người thương Bác quá, đành phải trả lại đôi dép cũ cho Bác đi.
Thế đấy, đôi dép cao su đã đi vào đời sống chiến đấu của một dân tộc, đầu tiên là các anh vệ quốc quân, sau đó toàn dân đi kháng chiến đều dùng.
Đôi dép lốp đã đi vào lịch sử, đi vào thơ ca. Nhà thơ Trần Hữu Thung đã viết trong bài “thăm lúa”:
“Lúa níu anh trật dép”
Câu thơ miêu tả hình ảnh người chồng chị nông dân ra đi trên bờ ruộng lúa tốt. Những bông lúa quấn lấy chần chừ làm sao mà trật được dép!
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 6Dép lốp là dép của quân giải phóng trong thời kỳ chiến tranh việt nam, do miền bắc việt lúc này kinh tế khó khăn không đủ nguyên liệu để sản xuất giày dép cho quân đội nên đã sử dụng lốp xe tải xe hơi các loại cắt ra làm thành dép cho binh sĩ mang hành quân nên gọi là dép lốp vừa rẻ vừa hợp với cách chiến đấu của quân đội du kích gọn nhẹ là chính dép lốp xuất hiện từ những năm 50 hình dạng đôi dép cong làm từ vỏ lốp ô tô, còn quai là những dây cao su được xỏ qua các khe hẹp trên đế dép. Bốn cái quai cao su, hai cái chéo bên trên, hai cái song song bên dưới, đủ chưa đó là dép lốp đó. Xuất hiện từ những năm 80, xin lỗi ai nói cho bạn biết vậy hay bạn đoán đối với cựu binh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thì dép lốp với cây gậy trường sơn là biểu tượng những năm chiến đấu của họ.
Đôi dép lốp là hình tượng gắn với ký ức tuổi thơ của các chàng trai cô gái thế hệ 5x, 6x, 7x chúng tôi. Những đôi dép cong làm từ vỏ lốp ô tô, còn quai là những dây cao su được xỏ qua các khe hẹp trên đế dép. Bốn cái quai cao su, hai cái chéo bên trên, hai cái song song bên dưới, đơn giản! thế mà bền chắc ra phết. Đã đi dép lốp trong túi thế nào chả găm sẵn cái rút dép – làm bằng một miếng sắt dẹt hình chữ I dài gập đôi lại. Mỗi khi dép đứt quai là mắm môi mắm lợi mà rút.
Cái dép cô bạn cùng trường tụt quai … cũng là một cơ hội là một cơ hội làm quen thật tuyệt. Dép lốp cùng chúng tôi đi học, đi làm, thậm chí đi chơi cũng vẫn là dép lốp. Cái dép tụt ra cho bạn một cái, mình một cái cùng kê dưới ngồi xem phim chiếu giữa trời.
Dép lốp không chỉ là vật đi ở chân, nó đã trở thành biểu tượng của những năm tháng dài cuộc sống vất vả mà tươi đẹp bởi đầy tình thương mến giữa con người với con người cùng nhau vượt qua khó khăn để sống để làm việc. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng bom đạn ở hậu phương rồi chiến trường. Những kỷ niệm hãi hùng của chiến tranh…với đôi dép lốp ở chiến trường.
Advertisement
Giờ đây chiến tranh đã qua đi, chúng tôi và con cháu chúng tôi không còn phải đi những đôi dép lốp. Mong sao những ngày tháng gian khổ qua đi vĩnh viễn và chiến tranh không bao giờ trở lại trên đất nước này, để những đôi dép lốp chỉ còn là những kỷ niệm về quá khứ, cho ta thêm yêu quý cuộc sống hôm nay.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 7Lịch sử dân tộc ta đã phải trải qua biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm vậy nên những vật dụng hành trang mà người bộ đội mang theo phải thật sự gọn nhẹ. Trong tâm trí chúng ta hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ ngoài hành trang là chiếc ba lô con cóc, chiếc mũ tai bèo, bộ quần áo màu xanh lá và những chiếc khăn giải phóng thì chúng ta còn phải kể đến đôi dép lốp. Tưởng chừng một vật vô cùng nhỏ bé ấy nhưng lại có tác dụng rất lớn đối với người bộ đội hay chính là những người xả thân vì tổ quốc.
Trước hết về nguồn gốc của đôi dép lốp ấy. Có thể nói đôi dép lốp ấy xuất phát từ những gì đã có sẵn trên chiến trường. Có thể nói trong chính điều kiện chiến tranh khắc nghiệt nên nhân dân ta đã biết sáng tạo những cái đáng ra vứt đi không thể dùng được nữa thì lại có thể dùng được. Đế dép được cắt ra từ những chiếc lốp ô tô đã tàn đã hỏng. Quai dép được cắt ra từ chiếc xăm chiếc lốp. Phần lớn là dép có màu đen kích cỡ theo tùy chân từng người. Trong điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh mà nhân dân ta vẫn sáng tạo vô cùng. Qua đó các anh bộ đội không mất nhiều tiền để mua dép mà còn sử dụng được những thứ đã hỏng rồi. Mỗi chiếc dép có bốn quai, mỗi quai được luồn vào những lỗ luồn xuống dưới đáy dép
Về công dụng và đặc điểm của dép lốp thì dép lốp cao su dễ làm, giá thành lại rẻ và nhất là dễ sử dụng trong mọi địa hình, dù đèo cao hay suối sâu, đường lầy lội hay đất bụi đều đi rất dễ dàng. Do các quai dép ôm vừa khít với bàn chân nên chiến sĩ ta đi không biết mỏi vì cảm giác rất nhẹ. Dép lốp rất tiện sử dụng, cả thời tiết nắng nóng và mưa dầm. Trời nắng thì thoáng mát, mưa dầm thì không lo sũng nước. Dép lốp cũng dễ vệ sinh. Khi dính bùn đất chỉ cần rửa nước là sạch. không những thế mà đôi dép lốp còn có công dụng rất lớn gắn liền với hình ảnh của những anh bộ đội cụ Hồ.
Những người chiến sĩ của chúng ta sống và chiến đấu trong cảnh trèo đèo lội xuống vì thế cho nên chiếc dép lốp không chỉ mang đến những tiện lợi như đi lội qua suối không sợ bị trơn trượt, đi đánh giặc chạy không sợ bị dẫm vào những vật trên mặt đất mà lại không bị tuột dép. Có thể nói hình ảnh đôi dép lốp cho thấy được sự giản dị và tiện lợi trên mặt trận của những anh bộ đội cụ Hồ.
Không những thế đôi dép ấy còn gắn liền với hình ảnh giản dị của bác Hồ. Có thẻ nói đôi dép ấy cũng như thể hiện được sự giản dị của Người. Dù Bác có sống ở đâu đi chăng nữa. Dù chiến khu Việt Bắc hay về đến thủ đô, dù gặp ai đi chăng nữa từ những người dân bình thường cho đến những vị lãnh tụ của nước bạn thì Bác vẫn luôn mang theo đôi dép lốp ấy. Chẳng thế mà nhà thơ Tố Hữu từng có câu thơ nói về đôi dép lốp với tất cả sự yêu mến và kính trọng:
Như vậy qua đây ta có thể thấy rằng chính sự giản dị cũng như tiện ích của mình đôi dép lốp ấy đã đi vào lịch sử nước nhà với hình ảnh vô cùng giản dị. Nó không chỉ thể hiện được sự năng động sáng tạo thông minh của nhân dân ta mà nó còn mang đến một hình ảnh đẹp của những người chiến sĩ cộng sản mà tiêu biểu ở đó là Bác Hồ.
Giới thiệu đôi dép lốp trong kháng chiến – Mẫu 8Chiến tranh là mất mát là đau thương. Nhưng với Việt Nam chiến tranh còn là bất khuất kiên cường. Khói bom lửa đạn không làm chùn chân những người lính, họ tiến lên để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Đồng hành cùng dấu chân người lính, không chỉ có ba lô con cóc, nón tai bèo mà còn có đôi dép lốp. Dép lốp đã trở thành hình ảnh gắn bó với bộ đội Việt Nam.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Cách mạng nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Để tiếp tục kháng chiến, nhân dân ta đã sáng tạo ra những vật dụng cần thiết từ chính sự thiếu thốn ấy. Dép lốp là một loại dép đơn giản, được làm từ săm và lốp ô tô cũ. Loại dép này phổ biến ở Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ bởi tính đơn giản, dễ làm, rẻ tiền và độ bền cao của chúng. Có nhiều nguồn tin cho rằng cha đẻ của đôi dép lốp là Đại tá Hà Văn Lâu nhưng chính ông cũng thừa nhận mình chỉ sử dụng lại cách thức của những người phu xe dùng mo cau hay vỏ ruột xe kéo làm những đôi dép mà thôi.
Năm 1947, thấy ông Nguyễn Văn Sáu (tức Sáu đen) có một số săm lốp ô tô cũ, ông Hà Văn Lâu đã đề nghị ông Sáu đen chế tạo những đôi dép lốp kiểu sandal tiện lợi, đi nhẹ và êm, lội nước và bùn rất thuận tiện. Thêm vào đó, những đôi dép lốp (dép cao su) có độ dày lớn, cứng nên có thể bảo vệ bàn chân người lính trong hầu hết trường hợp, kể cả giẫm lên mẻ chai, thép gai hay lửa đỏ.
Dép lốp có 2 bộ phận là đế và quai. Chiếc dép lốp thường có bốn quai. Quai dép được làm từ săm (ruột) xe ô tô đã qua sử dụng. Hai quai trước bắt chéo nhau, hai quai sau song song, vắt ngang cổ chân, bề ngang mỗi quai khoảng 1,5cm. Đế dép được làm từ lốp (vỏ) của xe ôtô hoặc được đúc bằng cao su. Cầm lên thấy nặng nhưng đi vào chân thì rất êm. Đế được đục những cái lỗ để xỏ quai qua.
Điều rất thú vị là loại dép này không cần may khâu gì cả. Người ta chỉ dùng một díp sắt kẹp lấy đầu quai rút vào một lỗ đục sấn. Quai và đế được cố định chắc chắn vào nhau nhờ vào sự giãn nở của cao su. Nhờ sự đàn hồi của cao su nên nó dính rất chặt vào nhau, đến nỗi đi vấp ngã mà vẫn không bật ra được.
Dép lốp còn có tên gọi khác là dép cao su, dép râu, dép Bình Trị Thiên. Chi phí làm ra một chiếc dép lốp rẻ, sử dụng lại vô cùng thuận tiện. Do các quai dép ôm vừa khít với bàn chân nên khi đi sẽ đỡ mỏi chân hơn vì cảm giác rất nhẹ. Trong mọi địa hình, thời tiết dép lốp đều có thể phát huy ưu điểm. Trời nắng thì thoáng mát, mưa dầm thì không lo sũng nước. Xuân hạ thu đông đều có thể đi dép lốp. Dép lốp dễ vệ sinh. Bùn đất dính vào chỉ cần rửa qua nước là sạch, không giống như nhiều loại giày dép hiện nay, bùn dính rất khỏe vệ sinh sạch sẽ. Quai dép tuột ra còn có thể gắn lại nên học sinh ngày đó cũng rất ưa chuộng loại dép này. Đi dép lốp, chân được thoải mái thông thoáng, tránh được một số bệnh về da chân. Người lính có thể hành quân cả ngày dài mà chân vẫn vững bước.
Đặc biệt, dép lốp đã trở thành chứng nhân lịch sử cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Sự bền chắc và thuận tiện của nó phù hợp với điều kiện khó khăn của cuộc kháng chiến. Dép lốp là vật dụng quen thuộc của chủ tịch Hồ Chí Minh, là người bạn đồng hành cùng bước chân người lính. Nó theo các anh ra chiến trường rồi lại cùng các anh trở về chiến khu. Nó là biểu tượng cho tinh thần anh dũng của người lính, là thành quả sáng tạo của con người Việt Nam, trước khó khăn không nản lòng thoái chí.
Dép lốp còn trở thành cảm hứng cho bao nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ. Để rồi sau này, những khúc ca ấy còn ngân vang mãi như gợi nhớ một thời đau thương mà kiên cường của dân tộc:
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Thời gian trôi đi, chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ. Nhiều đôi dép hiện đại hơn đã ra đời, dép lốp không còn phổ biến như xưa. Nhưng mỗi lần nhìn thấy đôi dép lốp nằm nghiêm trang trong tủ kính của các bảo tàng, người dân Việt Nam vẫn không kìm được niềm xúc động và tự hào về quá khứ hào hùng đã qua.
…..
Bài Tập Ôn Hè Môn Toán Lớp 3 Lên Lớp 4 35 Bài Tập Toán 3 Ôn Hè (Có Đáp Án)
Bài 1: Tính giá trị của biểu thức:
a, 14920 x 4 + 1738 b, 82381 + 2830 : 5
c, 19389 x 7 – 38198 d, 93782 – 8312 x 6
Bài 2:
a, Tính diện tích hình chữ nhật có chiều dài 9cm, chiều rộng 5cm
b, Tính diện tích hình vuông có cạnh là 6cm
Bài 3: Tìm X, biết:
a, X x 4 = 67400 b, X : 3 = 12300 c, 200000 : X = 5
d, X – 24800 = 15300 e, 93700 – X = 38900 f, X + 27900 = 93800
Bài 4: Có ba thùng dầu, thùng thứ nhất chứa 16 lít, thùng thứ hai chứa gấp 3 lần thùng thứ nhất, thùng thứ ba chứa kém thùng thứ hai 2 lần. Hỏi thùng thứ ba chứa bao nhiêu lít dầu?
Bài 5: Hai kệ sách có tổng cộng 130 quyển, nếu lấy 7 quyển sách ở kệ thứ nhất chuyển sang kệ thứ hai thì số sách ở hai kệ bằng nhau. Hỏi mỗi kệ có bao nhiêu quyển sách?
Bài 6: Một nhà máy có 180 công nhân, người ta dự định chia thành 5 tổ nhưng sau đó lại chia thành 6 tổ. Hỏi mỗi tổ ít hơn dự định bao nhiêu công nhân?
Bài 7: Không thực hiện phép tính, hãy so sánh hai tổng sau:
A = 100 + 320 + 540 + 760 + 980 và B = 540 + 900 + 360 + 120 + 780
Bài 8: Đặt tính rồi tính:
423 x 2 243 x 3 231 x 4 933 : 3
676 : 8 4268 + 3917 3845 + 2625 7331 – 759
135 x 9 2457 : 3 1414 x 5 1736 – 456
1204 : 4
Bài 9: Tìm x biết:
a) 15 : x = 24 : 8 b) 42 : x = 36 : 6 c) 84 : x = 18 : 9
Bài 10: Thùng thứ nhất có 16 lít dầu, thùng thứ nhất có số dầu bằng 1/8 số dầu thùng thứ hai. Hỏi thùng thứ hai có bao nhiêu lít dầu?
Bài 11: Có 234 kg gạo chia đều vào 9 túi. Hỏi mỗi túi có bao nhiêu kg gạo?
Bài 12: Chị An năm nay 16 tuổi, tuổi của bố chị An gấp 3 lần tuổi của chị An. Hỏi hai bố con chị An năm nay bao nhiêu tuổi ?
Bài 13: Tính:
236 + 372 + 453 – 253 – 172 – 36
612 – 342 : 9 + (102 – 68)
Bài 14: Lan có 56 que tính, Lan chia cho Hồng số que tính đó, chia cho Huệ số que tính còn lại. Hỏi sau khi chia cho 2 bạn Lan còn lại bao nhiêu que tính?
Bài 15: Một đám ruộng hình chữ nhật có chiều dài gấp 3 lần chiều rộng. Tính chiều dài và chiều rộng đám ruộng đó biết chu vi đám ruộng đó là 48 m.
Bài 16: Dũng có 12 viên phấn, Toàn có số viên phấn gấp 3 lần số viên phấn của Dũng. Hỏi hai bạn có tất cả bao nhiêu viên phấn?
Bài 17: Một cửa hàng ngày thứ nhất bán được 36kg đường, ngày thứ hai bán được số đường giảm đi 3 lần so với ngày thứ nhất. Hỏi ngày thứ hai bán ít hơn ngày thứ nhất bao nhiêu ki-lô-gam đường?
Bài 18: Có ba thùng dầu, thùng thứ nhát chứa 16 lít, thùng thứ hai chứa gấp 3 lần thùng thứ nhất, thùng thứ ba chứa kém thùng thứ hai 2 lần. Hỏi thùng thứ ba chứa bao nhiêu lít dầu?
Bài 19: Có hai bao gạo, bao thứ nhất đựng 72kg gạo và đựng gấp ba lần bao thứ hai. Hỏi bao thứ nhất đựng nhiều hơn bao thứ hai bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Bài 20: Hồng có 28 quyển sách, số sách của Hồng so với số sách của Lan thì kém 3 lần. Hỏi Lan phải chuyển cho Hồng bao nhiêu quyển sách để số sách của Lan còn gấp 2 lần số sách của Hồng?
Bài 21: Có hai tổ công nhân, tổ một có 15 công nhân, tổ hai nếu có thêm 6 công nhân thì sẽ gấp đôi tổ một. Hỏi hai tổ có bao nhiêu công nhân?
Bài 22: Có hai hộp bi, hộp thứ nhất nếu bớt ra 4 viên bi thì sẽ có số bi kém hộp thứ hai 2 lần. Hỏi hộp thứ nhất ít hơn hộp thứ hai bao nhiêu viên bi? Biết hộp thứ hai có 28 viên bi?
Bài 23: Có hai thùng dầu, thùng thứ nhất chứa 48 lít dầu, thùng thứ hai nếu có thêm 4 lít dầu thì số dầu ở thùng thứ hai so với thùng thứ nhất sẽ kém 2 lần. Hỏi phải cuyển từ thùng thứ nhất sang thùng thứ hai bao nhiêu lít dầu để hai thùng có số lít dầu bằng nhau?
Bài 24: An đi thăm một nông trại có nuôi gà và heo, An đếm được 216 chân gà và thấy só gà gấp 3 lần số heo. Hỏi nông trại có bao nhiêu con heo?
Bài 25: Có hai bao gạo, bao thứ nhất nặng 64kg. Biết rằng nếu bao thứ nhất có thêm 8kg gạo thì số gạo của bao thứ nhất so với bao thứ hai sẽ gấp 3 lần. Hỏi bao thứ nhất nhiều hơn bao thứ hai bao nhiêu ki-lô-gam gạo?
Bài 26: Dũng có một hộp 20 viên bi gồm 3 loại bi: bi xanh, bi đỏ và bi vàng. Biết số bi xanh gấp 6 lần số bi đỏ và gấp 2 lần số bi vàng. Hỏi mỗi loại có bao nhiêu viên bi?
Bài 27: Ba và Đức có tất cả 48 viên bi, biết số bi của Đức gấp 3 lần số bi của Ba. Hỏi Đức có nhiều hơn Ba bao nhiêu viên bi?
Bài 28: Có hai bao đường, nếu lấy ở bao thứ nhất bớt 3kg thì bao thứ nhất còn nhiều hơn bao thứ hai 24kg và còn nhiều gấp 3 lần bao thứ hai. Hỏi hai bao đường có tất cả bao nhiêu ki-lô-gam?
Bài 29: Có hai tấm vải, một tấm màu xanh, một tấm màu đỏ, tấm vải xanh dài gấp 3 lần tấm vải đỏ. Cửa hàng đã bán hét 25m vải xanh và 7m vải đỏ thì số mét vải còn lại của hai tấm vải bằng nhau. Hỏi lúc chưa bán mỗi tấm vải dài bao nhiêu mét?
Bài 30: Thùng thứ nhất có 8lít dầu, thùng thứ hai có nhiều hơn thùng thứ nhất 32 lít dầu. Hỏi thùng thứ hai có số lít dầu gấp mấy lần số lít dầu của thùng thứ nhất?
Bài 31: Một hình chữ nhật có chiều rộng 6 cm và bằng chiều dài. Tính chu vi và diện tích của hình chữ nhật đó.
Bài 32: Trong kho có 21356 kg gạo. Buổi sáng người ta đã bán được 6783 kg gạo, buổi chiều bán được 9453 kg gạo. Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu ki – lô – gam gạo?
Advertisement
Bài 33: Có 72kg gạo chia đều vào 9 túi. Hỏi có 40kg gạo thì chia được vào mấy túi?
Bài 34: Tính nhanh :
a) 25 + 63 + 37 + 75
b) 1 + 2 + 3 + 4 + 6 + 7 + 8 + 9
Bài 35: Một hình chữ nhật có chu vi bằng chu vi hình vuông cạnh 6cm. Chiều dài hình chữ nhật là 7cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó.
Bài 1:
a, 14920 x 4 + 1738 = 61418 b, 82381 + 2830 : 5 = 82947
c, 19389 x 7 – 38198 = 97525 d, 93782 – 8312 x 6 = 43910
Bài 2:
a, Diện tích hình chữ nhật là:
9 x 5 = 45 (cm2)
Đáp số: 45cm2
b, Diện tích hình vuông là:
6 x 6 = 36 (cm2)
Đáp số: 36cm2
Bài 3:
a, X = 16850 b, X = 36900 c, X = 40000
d, X = 40100 e, X = 54800 f, X = 65900
Bài 4:
Thùng thứ hai chứa số lít dầu là:
16 x 3 = 48 (lít)
Thùng thứ ba chứa số lít dầu là:
48 : 2 = 24 (lít)
Đáp số: 24 lít dầu
Bài 5:
Số sách ở mỗi kệ lúc sau là:
130 : 2 = 65 (quyển)
Số sách ở kệ thứ nhất là:
65 + 7 = 72 (quyển)
Số sách ở kệ thứ hai là:
65 – 7 = 59 (quyển)
Đáp số: Kệ thứ nhất: 72 quyển
Kệ thứ hai: 59 quyển
Bài 6:
Số công nhân dự định ở mỗi tổ là:
180 : 5 = 36 (công nhân)
Số công nhân thực tế ở mỗi tổ là:
180 : 6 = 30 (công nhân)
Mỗi tổ ít hơn dự định số công nhân là:
36 – 30 = 6 (công nhân)
Đáp số: 6 công nhân
Bài 7:
Ta có:
A = 100 + 320 + 540 + 760 + 980
B = 120 + 360 + 540 + 780 + 900 = 100 + 20 + 320 + 40 + 540 + 760 + 20 + 900
= 100 + 320 + 540 + 760 + 900 + 80
= 100 + 320 + 540 + 760 + 980
Vậy A = B
Bài 8: Học sinh tự đặt phép tính rồi tính
Bài 9: Tìm x biết:
a) x = 5
b) x = 7
c) x = 42
Bài 10:
Thùng thứ hai có số lít dầu là:
16 x 8 = 128 (lít)
Đáp số: 128 lít dầu
Bài 11:
Mỗi túi có số ki-lô-gam gạo là:
234 : 9 = 26 (kg)
Đáp số: 26kg gạo
Bài 12:
Tuổi của bố chị An là:
16 x 3 = 48 (tuổi)
Hai bố con chị An năm nay có số tuổi là:
16 + 48 = 64 (tuổi)
Đáp số: 64 tuổi
Bài 13:
236 + 372 + 453 – 253 – 172 – 36
= (236 – 36) + (372 – 172) + (453 – 253) = 200 + 200 + 200 = 600
612 – 342 : 9 + (102 – 68)
= 612 – 38 + 34 = 574 + 34 = 608
Bài 14:
Hồng được chia số que tính là:
56 : 4 = 14 (que)
Số que tính Lan còn lại sau khi chia cho Hồng là:
56 – 14 = 42 (que)
Huệ được chia số que tính là:
42 : 3 = 14 (que)
Số que tính Lan còn lại là:
42 – 14 = 28 (que)
Đáp số: 28 que tính
Bài 15:
Nửa chu vi của đám ruộng là:
48 : 2 = 24 (m)
Coi chiều rộng là 1 phần thì chiều dài tương ứng là 3 phần như vậy.
Tổng số phần của chiều dài và chiều rộng là:
1 + 3 = 4 (phần)
Giá trị của mỗi phần là:
24 : 4 = 6 (m)
Chiều rộng của đám ruộng là:
6 x 1 = 6 (m)
Chiều dài của đám ruộng là:
6 x 3 = 18 (m)
Đáp số: chiều dài: 18m; chiều rộng: 6m
Bài 16:
Toàn có số viên phấn là:
12 x 3 = 36 (viên)
Hai bạn có tất cả số viên phấn là:
12 + 36 = 48 (viên)
Đáp số: 48 viên phấn
Bài 17:
Ngày thứ hai cửa hàng bán được số đường là:
36 : 3 = 12 (kg)
Ngày thứ hai bán ít hơn ngày thứ nhất số đường là:
36 – 12 = 24 (kg)
Đáp số: 24kg đường
Bài 18:
Thùng thứ hai chứa số lít dầu là:
16 x 3 = 48 (lít)
Thùng thứ ba chứa số lít dầu là:
48 : 2 = 24 (lít)
Đáp số: 24 lít dầu
Bài 19:
Bao thứ hai đựng số gạo là:
72 : 3 = 24 (kg)
Bao thứ nhất đựng nhiều hơn bao thứ hai số gạo là:
72 – 24 = 48 (kg)
Đáp số: 48kg gạo
Bài 20:
Số sách của Lan ban đầu là:
28 x 3 = 84 (quyển sách)
Lan phải chuyển số sách là:
84 : 3 = 28 (quyển)
Đáp số: 28 quyển sách
….
Bài Viết Số 6 Lớp 6 Đề 3: Tả Hình Dáng Cụ Già Đang Câu Cá Dàn Ý & 6 Mẫu Bài Viết Số 6 Lớp 6 Đề 3
1. Mở bài
– Giới thiệu hoàn cảnh gặp gỡ hoặc địa điểm mà em được chứng kiến cụ già ngồi câu cá.
2. Thân bài
– Miêu tả lại chân dung của cụ già lúc ngồi câu cá.
Khuôn mặt (chú ý đôi mắt, chòm râu…).
Tư thế ngồi khom mình, ngồi thấp…
– Miêu tả cử chỉ, hành động của cụ từ xa đến gần.
Chú ý miêu tả đôi tay.
Miêu tả chi tiết các hành động như cuốc giun, xâu mồi, cầm cần thả xuống ao, sông, suối…
– Phong thái của ông lão lúc ngồi câu gợi ra điều gì? (sự nhàn nhã, thanh thản hay suy tư, trầm mặc).
– Có thể cho thêm vài hình ảnh như bầu trời trong xanh, dưới hàng cây…
– Đến khi cụ về thì dáng dấp cụ ra sao, xô đã đầy cá chưa?
– Hình ảnh ông lão gợi cho em ấn tượng gì?
3. Kết bài
– Hình ảnh ông lão ngồi câu cá có ngợi cho em nhớ về một kỉ niệm nào đó đối với ông nội (hay ông ngoại) của mình không?
– Qua đó, em mong ước điều gì? (được sống cùng ông bà và những người thân, để luôn được chăm lo dạy dỗ…).
Một buổi sáng mùa thu, tiết trời ấm áp, em có dịp quan sát một cụ già đang ngồi câu cá bên bờ hồ.
Hôm đó, cụ mặc bộ đồ bà ba màu xám trắng, tay cầm chiếc cần câu bằng trúc, lóng lánh dưới nắng mai hồng. Cụ trông thanh cao, giản dị và đầy chí khí. Cụ khoảng ngoài bảy mươi nhưng khuôn mặt vẫn đầy đặn, đẹp lão. Vầng trán cao đã hằn sâu những nếp nhăn. Mái tóc bạc phơ, nhìn cụ như một ông tiên nhân đức. Cụ già thong thả buông cần trúc xuống hồ sen. Trời nước lênh đênh, những chú cá chép lượn lờ trông mây dưới nước, đàn cá rô tung tăng đùa giỡn, cụ lay nhẹ cần câu, mặt nước hồ chao động. Đàn cá liếc mắt nhìn lên thấy chú giun cựa quậy dưới lưỡi câu, chúng lấy làm thích thú. Cụ già đưa tay vuốt nhẹ chòm râu bạc trắng, mắt cụ đăm đắm nhìn lũ cá đang vờn mồi.
– Con có thích cá không?
Em vội trả lời:
– Vậy thì ngồi đấy mà chờ ông.
Rồi cụ gọi:
– Cá rô ơi; hãy cắn câu đi nào!
Đàn cá rô vẫn vô tư, lượn lờ dưới nước, quanh quẩn bên đài sen để thưởng thức hương thơm. Chú giun vẫn cứ cựa quậy dưới lưỡi câu lóng lánh, cụ già vẫn kiên trì chờ đợi. Mặt hồ trải rộng, mênh mông và gợn sóng Những đóa sen vẫn rung rinh, gật gù trong gió sớm. Đột nhiên, một chú cá rô dũng cảm đến gần lưỡi câu. Cụ già khẽ bảo em:
– Lần này thì con có cá rô rồi đấy.
Em vui lắm và thầm mong cho cá cắn câu. Cụ già như hiểu ý em, cụ cố nhìn con mồi. Cụ cũng mong có cá rô cho em. Bàn tay xương xương của cụ vẫn nắm chặt lấy cần câu. Bóng cụ trải dài dưới mặt nước trong xanh. Mấy cọng tóc bạc phất phơ trước trán. Cụ vẫn kiên nhẫn, đợi chờ. Lần này trông cụ lo lắng, không còn vẻ ung dung vì sợ em thấy thất vọng. Chú cá rô không cầm lòng trước miếng mồi ngon, chú đớp mạnh còn mồi rồi định tuôn chạy nhưng đâu còn kịp nữa. Chú đã mắc câu. Cụ già vung tay lên hất cần câu lên bờ hồ. Cụ mỉm cười rồi bắt cá bỏ vào chiếc bị cho em. Cụ còn dặn dò em:
– Ông cho cá con đây nhưng con phải hứa với ông là học giỏi đấy!
Em vội đưa hai tay đón lấy cá và cám ơn cụ rối rít:
– Con cảm ơn ông ạ!
Em cầm chú cá đi về mà thầm cảm ơn cụ già tốt bụng kia… Lời dặn dò của cụ vẫn còn vang lời dặn dò của cụ già mà em xem như một ông tiên nhân hậu.
Con người chúng ta trong cuộc sống có biết bao nhiêu là dáng vẻ đẹp từ những cái cao cả cho đến những thú vui ngày thường. Có những dáng vẻ của những anh bộ đội cụ Hồ dù trúng đạn nhưng anh vẫn chết trong tư thế đứng bắn thể hiện một vẻ đẹp bất khuất kiên cường. Và cũng có những dáng vẻ của những người mẹ tần tảo nuôi con ru con không quản khó khăn mệt nhọc. Thậm chí khi một cụ già ngồi câu cá cũng để lại những vẻ đẹp.
Bố em nói rằng câu cá là một việc đòi hỏi sự kiên nhẫn cho nên những người già khi đã trải qua biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời thì thường sẽ kiên trì hơn. Một cụ già đi câu cá dáng vẻ hiện lên thật sự rất đẹp. Trên mặt hồ với những ngọn sóng lăn tăn gợn những đám bèo xanh non to có, nhỏ cũng có trôi lững lờ tạo nên một nét đẹp quê hương vô cùng hữu tình. Và trên bờ hồ kia hay giữa dòng sông kia có hình ảnh con thuyền nhỏ có một cụ già ngồi tựa gối buông cần đợi cá cắn câu. Những chiếc radio được mở những bài nhạc quê hương cách mạng thật hay. Không khí thanh mát với những làn gió nhẹ nhàng cụ già ngồi trên thuyền nhìn chiếc cần câu để chờ cá cắn. Trong lúc chờ đợi cụ lại nhấp môi chén trà ấm nóng chẹp chẹp miệng như thưởng thức vị ngon của trà. Cũng có thể là cụ đang thưởng thức những thú vui tao nhã của bản thân mình.
Thế rồi dây câu bỗng nhiên dựt dựt ông lão vui mừng tươi cười. Nó không phải nét hớn hở mà nó là một nụ cười đủ thể hiện thấy cụ đã biết cá đã cắn câu. Cụ đã già thế nhưng nhanh như chớp cụ vội hất chiếc cần câu lên. Nhìn cụ bỗng nhiên trông cụ giống như một chiến binh chứ không đơn thuần là một cụ già nữa. Một chú cá to bằng bàn tay người lớn quẫy đuôi muốn thoát. Thế rồi cụ để nó vào một cái xô đã có nước. Cụ tiếp tục cho mồi vào lưỡi câu sắc nhọn ấy sau đó lại thả xuống mặt hồ và tiếp tục nhắm mắt tận hưởng những điệu nhạc quê hương và cụ lại tiếp tục nhấp môi chén trà ấy.
Cứ như thế cụ già cũng câu được những chú cá tiếp thế nhưng khi thôi cụ không mang chúng về mà phóng sinh cho chúng. Đối với tuổi già mà nói thì câu cá không phải để đem về ăn nữa mà chủ yếu đó chỉ là một thú vui tao nhã mà thôi. Hình ảnh cụ hiện lên thật thư thái thanh thản với cuộc sống thường ngày của bản thân mình
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Bác Hồ, trên vô tuyến có chiếu những thước phim về các hoạt động của Bác. Bên cạnh những đoạn phim Bác làm việc, thăm hỏi chiến sĩ đồng bào, vui chơi cùng các cháu thiếu nhi, nhà đài còn chiếu một đoạn phim Bác ngồi trầm ngâm câu cá. Xem đoạn phim ấy ai không biết lại cứ ngỡ đó là một cụ già chốn thôn quê đang vui với thú vui câu cá nhàn tản.
Bác mặc một chiếc áo màu trắng nhạt, hòa với màu tóc Người, dáng điệu ung dung tự tại mà lại rất uy nghi. Tay cầm chiếc cần trúc, buông nhẹ xuống ao. Mắt lim dim như ngâm ngợi điều gì. Thỉnh thoảng, vài cơn gió hiu hiu thổi làm mặt nước gợn sóng khẽ lăn tăn. Thỉnh thoảng Bác quay sang uống vài ngụm trà xanh dân dã, trông rất mộc mạc, giản dị. Nhìn dáng Bác ngồi câu không hề thấy chút mệt mỏi, ưu tư. Ngắm Bác ung dung câu cá, nhiều người liên tưởng tới hình ảnh cụ già ngồi câu cá trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến ngày xưa.
Tưởng rằng “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được” vậy mà “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Bác đã giật mạnh cần câu, một chú chép tráng ham mồi bay lên khỏi mặt nước, lấp loáng uốn lưng dưới nắng vàng. Bác Hồ nét mặt vui tươi hân hoan, cười khoan khoái.
Hình ảnh Bác Hồ – vị cha già dân tộc, mộc mạc, dung dị và rất đời thường ấy khiến biết bao thế hệ người dân Việt Nam xúc động nghẹn ngào. Hình ảnh đó sẽ còn lắng mãi trong trái tim mỗi con người Việt Nam và trong tâm trí em.
Thời tiết hôm đó khá đẹp, nắng rất nhẹ nhàng, không gắt gỏng; gương mặt của cụ già cũng tươi tỉnh dù cá không cắn câu.
Khi mặt hồ yên lặng, không có chú cá nào bơi đến cụ lại thong thả vuốt chòm râu dài và trắng phau. Mái đầu của cụ cũng đã bạc trắng, thêm chòm râu trắng nữa nên cụ trông giống như một ông tiên hạ trần thế. Phong thái bình tĩnh và điềm đạm của cụ lúc câu cá khiến cho em liên tưởng đến bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng có dáng câu cá rất tao nhã và bình thản như vậy.
Cụ già rất kiên trì khi câu cá, lúc nào có động tĩnh, cụ cũng kéo cần câu rất nhẹ nhàng và điềm tĩnh để không đánh thức lũ cá đang bơi lội ở dưới kia. Bàn tay cụ khéo léo, kéo từ từ cần câu. Và lúc cần câu ngoi lên mặt nước thì có một con cá đã cắn câu. Đó là một con cá rô phi to bằng bàn tay người lớn đã bị mắc vào chiếc cần câu sắc nhọn. Chú cá ngoe nguẩy bên này sang bên kia để thoát khỏi bàn tay của ông cụ. Nhưng cụ đã rất nhanh nhẹn và khéo léo để bỏ chú cá xấu số vào chiếc giỏ đang treo ở xe.
Hình dáng cụ già câu cá hôm đó khiến em vui vui, cảm thấy cuộc đời này có nhiều điều thật bình yên nhưng đáng trân trọng.
Vào một ngày cuối mùa xuân, em cùng anh trai đi câu cá. Và nhờ đó mà em đã nhìn thấy hình ảnh của cụ già ngồi câu cá bên hồ.
Trời đã bước vào thu. Nắng vẫn còn vàng nhưng không còn chói chang, gay gắt như nắng hè, cũng chưa đến mức hanh khô, khó chịu như mùa đông. Thu đến khiến cho thời tiết thật dễ chịu. Bầu trời cao và xanh ngắt. Từng đám mây trắng bồng bềnh như những chiếc kẹo bông đang lững lờ trôi trên bầu trời. Gió cũng chỉ hây hây, thổi nhẹ lướt qua như đang vuốt ve, nũng nịu với tán lá. Em đang thong thả đi dạo cùng với anh trai thì bất chợt nhìn thấy một cụ già đang ngồi câu cá ven hồ. Cụ mặc một bộ quần áo màu nâu sẫm như màu vỏ cây. Trông cụ cũng đã lớn tuổi, chắc cũng phải ngoài bảy mươi rồi. Mái tóc và chòm râu của cụ đã bạc trắng cả. Trên khuôn mặt cụ những nếp nhăn liên tiếp nhau còn làn da thì đã xuất hiện những chấm đồi mồi của những người già. Đôi mắt của cụ đã đục nhưng trông cụ vẫn còn rất minh mẫn. Cái miệng cụ móm mém, cũng giống như bà nội em, răng cụ đã rụng gần hết, trông cụ đến là hiền lành. Đôi bàn tay cụ gầy gầy, xương xương, những ngón tay với làn da nhăn nheo cầm lấy chiếc cần một cách cẩn thận.
Chiếc cần câu của cụ được làm bằng cây trúc. Em hỏi tại sao thì anh trai em nói trúc là loài cây có độ đàn hồi rất tốt, dẻo. Dưới ánh nắng, cành trúc ánh lên những ánh sáng lấp lánh thật đẹp. Xung quanh chỗ cụ ngồi câu cá, bày những dụng cụ thật đơn sơ. Một chiếc ghế gấp nhỏ để ngồi, một chiếc hộp đựng lưỡi và mồi, một chiếc túi bóng, có lẽ để đựng đồ ăn nhẹ hoặc nước uống mà cụ mang từ nhà đi. Em và anh trai đã đi được hai vòng nhưng khi quay trở lại, em vẫn thấy cụ già ngồi yên lặng như một pho tượng đồng đúc. Chòm râu của cụ im phăng phắc. Cụ ngồi khom lưng, đầu hơi cúi về phía trước, hai bàn tay ôm lấy cán cần. Đôi mắt cụ lim dim nhưng em biết chắc chắn không phải cụ đang ngủ mà cụ đang chăm chú nhìn cái phao màu vàng nổi trên mặt nước, chờ cá đớp mồi mà thôi.
Em và anh trai nhìn nhau rồi quyết định đi tới gần chỗ cụ. Chúng em đi thật nhẹ nhàng để lũ cá không nghe thấy tiếng động, sợ hãi quá mà bơi đi mất. Cụ nghe thấy tiếng giày dẫm trên bãi cỏ, liền quay lại nhìn chúng em. Cụ mỉm cười hiền lành, cái miệng móm mém trông thật phúc hậu:
– Chào hai cháu!
– Chúng cháu chào ông ạ! Ông ơi, chúng cháu có thể ngồi xem ông câu cá được không ạ? – Hai anh em đáp lại.
– Được chứ!
Sau đó, hai anh em ngồi xuống cạnh cụ để xem cụ cầu cá. Ngồi một lúc lâu, cái phao nổi trên mặt nước mới khẽ động đậy. Em và anh trai hưng phấn đến mức suýt chút nữa hét lên nhưng thật may là đã kìm lại được. Cụ thong thả thu dây cước trắng lại. Từ tốn, thành thạo như cụ đã làm việc này cả nghìn lần rồi. Con cá có vẻ lớn và rất khỏe vì chiếc cần trúc của cụ bị kéo cong một đường cung rất lớn. Nhưng nhìn khuôn mặt cụ có vẻ như cụ chửng lo lắng chút nào hết. Cụ cứ thả dây rồi lại thu về, cứ thế lặp đi lặp lại nhiều lần một cách vô cùng kiên nhẫn.
Advertisement
Một lúc sau, khi thu dây về đã đủ, cụ giật mạnh cần câu một cái, một chú cá chép từ dưới hồ bay lên rồi đáp xuống bên bãi cỏ. Đó là một con cá chép to bằng cánh tay của cụ, chắc cũng phải nặng tới 3kg. Mỗi chiếc vẩy của nó đều vàng vàng, to như đốt ngón tay út. Con cá nằm trên bãi cỏ, miệng vẫn còn mắc phải lưỡi câu. Nó ngáp ngáp từng đợt để lấy không khí. Cả hai anh em nhìn thấy mà hò reo sung sướng.
Hôm đó, sau khi trở về nhà, em vẫn còn nhớ mãi hình ảnh của cụ. Cả hai anh em đều cảm thấy việc câu cá thật thú vị.
Chủ nhật tuần vừa rồi, bố đã cho em đi ra hồ gần nhà để câu cá. Và em cảm thấy ấn tượng nhất về hình ảnh ông Bình – một người câu cá vô cùng chuyên nghiệp.
Ông Bình là hàng xóm của nhà em. Ông năm nay đã ngoài sáu mươi. Nhưng dáng vẻ khá khỏe mạnh, gân guốc. Khuôn mặt của ông vuông vức, phúc hậu. Trên khuôn mặt ấy, làn da đã nhăn nheo, màu nâu đồng như in dấu ấn của năm tháng. Đôi mắt ông chăm chú nhìn dây câu, hàng lông mày bạc khẽ nhíu lại đầy vẻ tập trung. Em thấy ông hơi mím đôi môi cương nghị với vẻ nhẫn nại. Mái tóc đen đã điểm vài sợi bạc được cắt gọn gàng, rủ xuống vầng trán cao toát lên vẻ tinh anh. Nét mặt ông có một vẻ gì đó rất dễ mến, gần gũi như nét mặt của ông ngoại em vậy.
Ông Bình mặc bộ bà ba màu nâu giản dị, với những chiếc cúc bấm theo kiểu cổ điển, mà bây giờ em thấy ít người mặc. Tay áo dài gần mắt cá tay. Còn chiếc quần rộng, thoải mái khi ông ngồi trên chiếc ghế nhựa màu xanh để buông câu.
Ông ngồi lặng lẽ, lưng hơi cong cong. Đôi tay gầy gầy xương xương của cụ nâng nhẹ cần câu làm bằng một thân trúc nhỏ và dẻo. Từng đốt của thân trúc ánh lên màu vàng óng, nhẵn nhụi nổi bật giữa mặt hồ phẳng lặng. Nó là một chiếc cần câu đẹp và hẳn là chiếc cần câu này rất được ông yêu quý. Nhìn kỹ hơn, em thấy sợi dây câu buông xuống mặt nước cách ông vài mét, vẫn im ắng chưa có động tĩnh. Chắc lũ cá chưa phát hiện ra mồi từ lưỡi câu. Buổi trưa yên tĩnh, chỉ có ngọn gió rì rào qua những cành tre lay động xung quanh bờ ao. Ông Bình ngồi yên lặng, dáng vẻ yên tĩnh.
Nhưng bỗng nhiên “vút” một cái, em thấy cánh tay mạnh mẽ của ông kéo mạnh cần câu về phía trên mặt hồ. Dây câu rời mặt nước, từng giọt nước bắn tung tóe dưới ánh mặt trời trông rực rỡ như pha lê nhiều màu. Em thấy ở chỗ lưỡi câu, một chú cá to khoảng bằng cổ tay em đang cong mình giãy giụa. Rồi em thấy ông Bình bật một tiếng cười sảng khoái, rồi nhanh chóng gỡ con cá ra, bỏ vào chiếc giỏ cá bên mình.
Thật tuyệt vời biết bao. Em ngồi xem ông câu cá mà quên mất cả chiếc cần câu của mình. Kể từ hôm đó, em cảm thấy rất thích “bộ môn câu cá” này.
Cập nhật thông tin chi tiết về Phép Chia Cho Số Có Ba Chữ Số Lớp 3 Và Bài Tập Vận Dụng trên website Vtlx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!