Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Người Bạn Lớn Của Con Người Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7 được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Vtlx.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Giải thích câu Sách là người bạn lớn của con người
Tài liệu bao gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu hay nhất, dành cho học sinh lớp 7. Nội dung chi tiết được chúng tôi đăng tải ngay sau đây.
Giải thích câu nói Sách là người bạn lớn của con người
Dàn ý giải thích Sách là người bạn lớn của con người
Giải thích Sách là người bạn lớn của con người ngắn gọn (2 mẫu)
Giải thích Sách là người bạn lớn của con người (10 mẫu)
Dàn ý giải thích Sách là người bạn lớn của con người1. Mở bài
Dẫn dắt giới thiệu về câu nói “Sách là người bạn lớn của con người”.
2. Thân bài
a. Giải thích câu nói
– “Sách” là một bản in bằng giấy có nội dung rất phong phú. Sách có từ khi loài người có chữ viết. Con người lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống: khoa học, nghệ thuật, đời sống…
– “Người bạn”: những con người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.
b. Vai trò của sách
– Sách cung cấp cho con người những hiểu biết, những tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống, vượt thời gian và vượt không gian.
– Sách cho ta hiểu biết về chính mình. Khi đọc được một quyển sách tốt, chúng ta được bồi đắp thêm về tâm hồn, tình cảm.
– Sách là phương tiện để ta có thể giao tiếp: giao tiếp với tác giả, với độc giả bao thế hệ để từ đó tự rèn luyện mình.
– Sách giúp con người vươn tới những ước mơ, khát vọng; giáo dục tình cảm, đạo đức; giáo dục ý thức thẩm mỹ…
– Nếu thiếu sách, cuộc sống con người sẽ rơi vào tăm tối, không có ánh sáng của tri thức, con người trở nên lạc hậu.
c. Liên hệ bản thân
Học sinh cần tích cực đọc sách, biết lựa chọn sách phù hợp với mục đích và nhu cầu, tuy nhiên sách phải có nội dung lành mạnh, tích cực.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của câu nói: “Sách là người bạn lớn của con người”.
Giải thích Sách là người bạn lớn của con người ngắn gọn Đoạn văn mẫu số 1Ý kiến “Sách là người bạn lớn của con người” gợi cho chúng ta suy nghĩ về vai trò của những cuốn sách. Về khái niệm, “sách” là sản phẩm do con người sáng tạo ra, một văn bản được in dưới dạng quyển, dùng để ghi chép, lưu trữ tri thức của nhân loại. Sách có rất nhiều thể loại, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Còn “bạn” hiểu đơn giản là những người có chung sở thích, lí tưởng hay mục tiêu. Cách so sánh “Sách là người bạn lớn của con người” cho thấy được tầm vai trò của sách với con người, cũng giống như vai trò của những người bạn vậy. Một người bạn tốt sẽ giúp chúng ta học hỏi được nhiều điều bổ ích. Sách là nơi lưu trữ toàn bộ nguồn tri thức của nhân loại. Bởi vậy, khi đọc sách, chúng ta sẽ học hỏi thêm được nhiều kiến thức bổ ích. Một cuốn sách giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn đã phải trải qua. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Ngoài ra, những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp để nỗ lực hướng tới tương lai. Qua những trang sách, chúng ta có thêm được niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi nghịch cảnh, khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta hãy yêu sách, trân trọng sách như yêu và trân trọng người bạn của mình.
Đoạn văn mẫu số 2“Sách là người bạn lớn của con người” – câu nói gợi cho mỗi người suy nghĩ về vai trò của sách. Hiểu đơn giản, “sách” là dạng một văn bản được in ra thành quyển, ghi chép những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn “bạn” là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu…; với “người bạn lớn” không phải chỉ về hình thức mà về giá trị, vai trò của người bạn đối với mỗi người. “Sách là người bạn lớn của con người” nhằm khẳng định được tầm quan trọng và vai trò lớn lao của sách đối với con người. Con người sáng tạo ra sách nhằm lưu giữ nguồn tri thức của nhân loại. Bởi vậy, khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ học được nhiều kiến thức bổ ích, mà không bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Ngoài ra, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Đọc sách còn để giải trí, thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Với những vai trò như vậy, chúng ta cần trân trọng sách như với chính người bạn.
Giải thích Sách là người bạn lớn của con người Bài văn mẫu số 1Không thể phủ nhận được tầm quan trọng của sách trong cuộc sống của con người. Bởi vậy mà có ý kiến cho rằng: “Sách là người bạn lớn của con người”. Ý kiến trên đã gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ về vai trò của sách.
Chúng ta có thể kể đến rất nhiều định nghĩa khác nhau về “sách”. Nhưng có thể hiểu đơn giản rằng sách là dạng văn bản được in ra thành quyển, ghi chép những thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn “bạn” là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu và “người bạn lớn” ở đây không phải chỉ về hình thức mà về giá trị, vai trò của người bạn đối với mỗi người. Như vậy, “sách là người bạn lớn của con người” đã khẳng định được tầm quan trọng và vai trò của sách đối với con người.
Con người sáng tạo ra sách nhằm lưu giữ nguồn tri thức của nhân loại. Bởi vậy, khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ học được nhiều kiến thức bổ ích, không bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Ngoài ra, chúng ta đọc sách chỉ là để giải trí, thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng.
Bởi vậy, chúng ta cần trân trọng sách như với chính người bạn. Điều đó thể hiện không chỉ ở việc giữ gìn những cuốn sách cẩn thận. Mà còn ở cách đọc sách sao cho hiệu quả, không cốt lấy nhiều về số lượng mà chú trọng chất lượng. Cuốn sách được lựa chọn đọc phải phù hợp với mục đích của người đọc. Khi đọc sách, chúng ta cũng cần vừa đọc, vừa suy nghĩ kết hợp với ghi chép để hiểu được nội dung của cuốn sách.
Như vậy, ý kiến “Sách là người bạn lớn của con người” vô cùng giá trị. Chúng ta sẽ hiểu hơn về giá trị của sách, từ đó biết giữ gìn và trân trọng sách hơn.
Bài văn mẫu số 2Một tiểu thuyết gia người Mĩ đã từng khẳng định: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được chọn lựa; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”. Câu nói giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của sách – “Sách là người bạn lớn của con người.
Có rất nhiều khái niệm về “sách”, nhưng hiểu đơn giản sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển, có chứa đựng một khối lượng thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn “bạn bè” là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu… “Sách là người bạn lớn của con người” có nghĩa là sách cũng giống như bạn bè vậy, có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi người. Sách giúp cung cấp kiến thức bổ ích. Sách còn giúp chúng ta thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Có đôi khi, sách còn chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn với con người.
Bên cạnh kiến thức, sách cũng giống như người bạn, cùng chia sẻ với con người mọi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Một cuốn sách hay có thể giúp chữa lành những vết thương mà bạn đã trải qua. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Không chỉ vậy, sách còn là nơi giúp con người giải trí sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng và mệt mỏi.
Sách cũng có vai trò giáo dục, giống như người bạn có thể cho chúng ta lời khuyên khi chúng ta đi sai đường, hay định hướng chúng ta đến với những điều tốt đẹp. Những tác phẩm văn chương giàu giá trị giúp khơi dậy cho mỗi người biết xúc động, biết đồng cảm và chia sẻ. Những cuốn sách hướng nghiệp giúp chúng ta có được định hướng tốt trong cuộc sống… Khi xã hội càng phát triển, cũng sẽ có nhiều loại sách khác nhau. Giống như bạn bè, có bạn tốt cũng có bạn xấu. Con người cần biết lựa chọn sách để đọc sao cho hiệu quả, bổ ích.
“Một cuốn sách hay trên giá sách là một người bạn dù quay lưng lại nhưng vẫn là bạn tốt”. Và lời khẳng định sách là người bạn lớn của con người là hoàn toàn đúng đắn, giá trị.
Bài văn mẫu số 3Sách rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Bởi vậy mà có ai đó đã từng khẳng định rằng “Sách là người bạn lớn của con người”.
Trước hết, sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng một khối lượng thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm của các tác giả. Còn bạn bè là những người có cùng chung tính cách, sở thích, mục tiêu… Sách cũng giống như bạn bè vậy, có ảnh hưởng đến con người. Những cuốn sách hay có thể cung cấp những kiến thức bổ ích. Sách còn giúp chúng ta thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Có đôi khi, sách còn chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn với con người.
Trước hết, sách cung cấp cho chúng ta những kiến thức bổ ích. Bởi sách chính là nơi lưu giữ toàn bộ tri thức của nhân loại. Từ xưa đến nay, con người học tập đều cần có những cuốn sách hỗ trợ. Cũng giống như khi chúng ta quen biết với một người bạn hiểu biết nhiều, sẽ học hỏi được những kiến thức bổ ích.
Nhiều cuốn sách có khả năng định hướng con người về mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Từ đó, chúng ta sẽ nỗ lực không ngừng để có thể đạt được thành công. Cũng giống như một người bạn tốt, sẽ đưa ra những lời khuyên cho chúng ta trong mọi vấn đề.
Một cuốn sách hay còn có khả năng cảm hóa con người. Bởi vậy mà Hoài Thanh từng nhận định rằng: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Không chỉ vậy, sách còn giúp xoa dịu tâm hồn, trở thành một người bạn có thể chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống của mỗi người.
Chúng ta cần hiểu được giá trị của những cuốn sách để có thể biết trân trọng, và có phương pháp đọc sách đúng đắn. Lời nhận xét “Sách là người bạn lớn của con người” là hoàn toàn đúng đắn.
Bài văn mẫu số 4Có ai đó đã từng khẳng định rằng: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được chọn lựa; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”. Quả thật, sách đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Bởi vậy mà “Sách là người bạn lớn của con người”.
Đầu tiên cần hiểu thế nào là sách? Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về sách. Nhưng hiểu đơn giản nhất rằng sách chính là tri thức, là nơi con người có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, trau dồi và rèn luyện bản thân mình. Với “người bạn” thì dùng để chỉ những người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Khi so sánh “sách” với “người bạn lớn”, câu nói trên muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sách đối với con người.
Mỗi người bạn đều có những hiểu biết nhất định về một lĩnh vực nào đó. Khi chúng ta trao đổi với bạn bè sẽ giúp vốn hiểu biết tăng thêm. Và cũng giống như một người bạn, sách đã cung cấp cho con người thêm những kiến thức. Nhưng đặc biệt hơn cả là sách có thể giúp người đọc vượt qua mọi không gian và thời gian, thậm chí là mọi ngôn ngữ. Những kiến thức mà sách đem lại là vô tận, không giới hạn về lĩnh vực.
Một người bạn lớn còn dạy cho chúng ta những bài học quý giá. Một cuốn sách hay sẽ giúp con người bồi dưỡng được tâm hồn đẹp đẽ, tình cảm tốt đẹp. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Cũng giống như khi chơi với một người bạn tốt, chúng ta cũng sẽ cố gắng để hoàn thiện bản thân hơn.
Với tầm quan trọng như vậy, việc đọc sách cần phải có được phương pháp đúng đắn. Tác giả Chu Quang Tiền trong “Bàn về đọc sách” từng viết: “Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ”. Đây hẳn là một phương pháp đọc sách đúng đắn. Quỹ thời gian con người là vô hạn, nhưng số lượng sách lại vô hạn. Những kiến thức mà chúng ta học được giống như một giọt nước giữa đại dương vô tận. Vậy nên, khi đọc sách, chúng ta không nên quá quan trọng việc mình đã đọc được bao nhiêu cuốn, đó là nhiều hay ít. Mà quan trọng nhất là khi đọc sách cần vừa đọc, vừa ngẫm nghĩ để hiểu được nội dung cuốn sách đó một cách sâu sắc nhất.
Quả thật, những cuốn sách chính là “người bạn lớn” của con người. Không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của những cuốn sách.
Bài văn mẫu số 4Trong cuộc sống, sách đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Một cuốn sách chính là “người bạn lớn của con người”.
“Sách là người bạn lớn của con người” đã cho thấy tầm quan trọng của sách. Nó giống như người bạn đồng hành cùng với con người vượt qua mọi thử thách. Những cuốn sách cũng giống như những người bạn, dạy cho mỗi người nhiều bài học bổ ích. Không chỉ là những bài học kiến thức mà còn là bài học cuộc sống.
Đầu tiên, sách cung cấp kiến thức cho con người. Đó là một điều mà không ai có thể phủ nhận. Bởi sách là nơi lưu trữ toàn bộ tri thức của nhân loại. Từ xưa đến nay, con người học tập đều cần có những cuốn sách hỗ trợ. Dù là bất kì lĩnh vực nào, chỉ cần đọc sách, con người sẽ tìm được đáp án mà mình muốn biết.
Tiếp đến, đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Khi đọc một cuốn sách hay, chúng ta sẽ có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Tất cả điều này sẽ giúp bạn trở thành một người thành công hay thất bại.
Sách còn có khả năng cảm hóa con người. Sách giúp chúng ta khơi dậy những tình cảm sống động: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Khi đọc tác phẩm “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan, người đọc sẽ cảm nhận được nỗi nhớ quê hương, đất nước cũng như sự xót xa của tác giả trước cảnh ngộ của đất nước. Đọc truyện “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen, người đọc sẽ thương xót cho thân phận bất hạnh của cô bé bán diêm tội nghiệp, căm giận một xã hội vô cảm đã gián tiếp dẫn đến cái chết của cô bé. Từ đó, truyện khơi gợi trong lòng người đọc tấm lòng yêu thương, biết chia sẻ và đồng cảm.
Như vậy, “Sách là người bạn lớn của con người” là hoàn toàn đúng đắn. Hãy coi trọng những cuốn sách, bởi đó là “ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”.
Bài văn mẫu số 6Sách là người bạn đồng hành không thể thiếu của con người trong hành trình chinh phục tri thức và hoàn thiện bản thân. Có lẽ bởi vậy mà có ai đó đã từng khẳng định rằng “Sách là người bạn lớn của con người”.
Trước hết, “sách” là một dạng văn bản hay tài liệu ghi lại những tri thức, hiểu biết của con người về thế giới khách quan được ra đời từ rất sớm. Câu nói “Sách là người bạn lớn của con người” đã nêu cao và khẳng định vai trò của sách. Nó giống như người bạn đồng hành cùng với con người vượt qua mọi thử thách. Giá trị của một cuốn sách tốt cũng giống như một người bạn tốt. Nó có tầm vóc to lớn, giúp con người vươn tới thành công
Sách đã ghi lại những phát hiện, những hiểu biết và tri thức của con người về thế giới tự nhiên, xã hội. Thuở xưa, sách được tạo ra bằng cách chạm khắc lên mặt đá, lên thanh tre thanh trúc. Từ những nét chữ tượng hình giản đơn đến các loại ngôn ngữ có cấu tứ rõ ràng. Đến ngày hôm nay, sách đã được lưu giữ và phát triển qua một quá trình dài. Dù ngay cả trong chiến tranh xâm lược kéo dài từ thời phong kiến đến hiện đại, sách vẫn ở cạnh chúng ta. Các vị anh hùng chống giặc ngày xưa vận dụng kế sách, chiến thuật trong sách binh pháp cổ đại. Bác Hồ tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc cũng một phần nhờ vào sách ghi lại học thuyết của Mác – Lênin.
Và sách cũng là người bạn đồng hành với con người trong cả cuộc đời. Trong suốt quá trình học tập, sách là một phương tiện không thể thiếu đối với mỗi học sinh. Ngay cả khi không còn ngồi trên ghế nhà trường, những cuốn sách vẫn đem lại lợi ích cho chúng ta. Những cuốn sách dạy cho chúng ta về làm người, cách yêu thương và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Dù qua bao nhiêu năm tháng, dù ở bất cứ nơi đâu, bên cạnh chúng ta luôn có sự hiện diện của sách.
Không chỉ là người bạn bình thường, sách còn là người bạn lớn của con người. Bởi lẽ sách là kho tàng lưu giữ tinh hoa tri thức khổng lồ của nhân loại, được tích lũy qua hàng triệu năm. Từ những nhận thức đơn sơ thời cổ đại đến những thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại. Sách chứa đựng vô vàn điều mới lạ, kỳ diệu. Vô vàn thể loại, lĩnh vực khác nhau, mỗi cuốn sách lại đem đến cho chúng ta một chân trời mới. Sách địa lý giúp chúng ta vượt qua những rào cản không gian để đến được những vùng đất xa xôi, bí ẩn. Sách khoa học như chuyến tàu tốc hành đưa ta bay vào vũ trụ bao la, chạm đến những vì sao mà chỉ kính viễn vọng mới có thể nhìn thấy. Sách lịch sử lại như một cỗ máy thời gian đưa ta ngược về quá khứ để hiểu hơn những gì loài người đã trải qua, đưa ta đi đến tương lai với bao hy vọng, niềm tin và mơ ước. Sách văn học “gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có”, dạy chúng ta biết yêu thương, đồng cảm với con người, biết trân trọng nâng niu cái đẹp, biết căm hờn cái xấu xa độc ác ở đời.
Đôi khi sách cũng không phải là một “người bạn tốt”. Cũng giống như bạn bè – có người tốt, người xấu. Những cuốn sách tốt sẽ giúp chúng ta mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn, sống nhân ái và biết vươn tới những giá trị tốt đẹp. Ngược lại, sách xấu là những cuốn sách có nội dung đồi trụy, đi ngược lại giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục, làm cho nhận thức của chúng ta lệch lạc, nhân cách suy thoái. Chính vì vậy cần biết cách lựa chọn sách để đọc, cũng giống như lựa chọn bạn để chơi.
Thực tế hiện nay, cuộc sống hiện đại, có quá nhiều thứ hấp dẫn, nhiều người đã dần lãng quên sách, nhất là các bạn trẻ. Họ có thể dành hàng giờ để đọc những cuốn truyện tranh vô bổ, nghịch điện thoại, chơi game nhưng không thể bỏ ra dù chỉ chút ít thời gian để đọc sách văn học, khoa học. Vốn hiểu biết của chúng ta thực chất chỉ nhỏ như giọt nước giữa đại dương tri thức mênh mông. Nếu không chú trọng bổ sung, sẽ có ngày giọt nước ấy bốc hơi theo năm tháng.
Mỗi người hãy ý thức tầm quan trọng của sách. Hãy trân trọng và nâng niu, phát huy giá trị của người bạn lớn – sách để hoàn thiện bản thân và vươn tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.
Bài văn mẫu số 7Cuộc sống của con người là một hành trình dài. Trên hành trình đó, chúng ta luôn cần những người bạn đồng hành. Sách chính là một trong những người bạn đó. Cũng giống như câu nói: “Sách là người bạn lớn của con người”.
Đầu tiên, sách trước hết là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong cuốn sách đó có chứa đựng những thông tin chính cần đề cập tới. Đó là những kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm, của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Sách được hình thành từ khi con người sáng tạo ra chữ viết, khi họ muốn lưu lại vào sách những suy nghĩ tâm tư, tình cảm của mình về những vấn đề trong cuộc sống: khoa học, nghệ thuật, đời sống… Hiện nay, khi xã hội càng ngày càng phát triển thì càng có nhiều loại sách. Có thể kể đến tên một số loại sách như: sách khoa học, sách giáo khoa, sách giải trí… Mỗi loại sách khác nhau đều có những chức năng khác nhau. Còn “người bạn” dùng để chỉ những người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Và “người bạn lớn” sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của chúng ta. So sánh “sách” với “người bạn lớn”, câu nói trên muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sách đối với con người. Cũng giống như câu nói: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được lựa chọn; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”.
Sách giống như một người bạn lớn, bời vì nhờ có những cuốn sách đã cung cấp cho con người một nguồn tri thức vô giá nhân loại. Không chỉ là những tri thức của hiện tại mà còn là những nghiên cứu, những tinh hoa mà phải trải qua một quá trình dài mới có thể đúc kết ra được. Qua những trang sách, chúng ta có thể tìm về với quá khứ, bước đến tương lai hoặc có thể phiêu lưu khắp mọi nơi trên thế giới. Harvey MacKay nói rằng: “Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc”. Khi đọc được một cuốn sách hay, bạn đã tích lũy cho mình một nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Bạn cũng sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ mà trước đây bạn chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Đồng thời, có những cuốn sách còn giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Điều đó sẽ giúp bạn đạt được thành công mà mình mong muốn.
Mỗi cuốn sách sẽ có ảnh hưởng nhất định đến con người. Những tác phẩm văn chương giàu giá trị giúp khơi dậy cho chúng ta biết xúc động, biết đồng cảm và chia sẻ. Các sáng tác của nhà văn Thạch Lam như Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê… đã khắc họa cuộc sống của những kiếp người nhỏ bé trong xã hội. Những tác phẩm này đã khơi dậy trong lòng người đọc lòng thương cảm, sự sẻ chia với những con người đó.
Nhưng bên cạnh những cuốn sách tốt – giống như một người bạn tốt, còn có những cuốn sách xấu – sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến con người. Chính vì vậy, chúng ta cần phải biết lựa chọn sách để đọc.
Như vậy, câu nói “Sách là người bạn lớn của con người” là hoàn toàn đúng đắn. Mỗi người hãy biết lựa chọn sách, quý trọng sách giống như đối với một người bạn của mình vậy.
Bài văn mẫu số 8Từ xưa đến nay, sách có một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của nhân loại. Chính bởi vậy mà có câu nói: “Sách là người bạn lớn của con người” đã khẳng định được tầm quan trọng của sách.
Hiểu một cách đơn giản, sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển, trong cuốn sách đó có chứa đựng những thông tin chính cần đề cập tới, đó là những kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm, của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Bạn bè là những người có cùng chung sở thích, lí tưởng, hoàn cảnh, cùng chia sẻ mọi buồn vui giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Những người “bạn lớn”sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc sống của chúng ta. Khi so sánh “sách” với “người bạn lớn” đã cho thấy được vai trò của sách trong cuộc sống của mỗi người.
Sách cung cấp cho con người những tri thức khác nhau thuộc mọi lĩnh vực trong đời sống. Sách có thể giúp người đọc vượt qua mọi không gian và thời gian, thậm chí là mọi ngôn ngữ. Khi đọc sách, chúng ta giống như đang được “xuyên không” từ quá khứ đến hiện tại và ngay cả tương lai nữa. Lạc vào thế giới của sách, con người sẽ đến với những chuyến hành trình bất tận, khám phá được nhiều điều mới mẻ và thú vị mà chỉ phải bỏ ra một số tiền rất nhỏ.
Sách là người bạn lớn bởi nếu chúng ta đọc được một quyển sách tốt, bạn không chỉ học hỏi được những kiến thức mà còn bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng không phải cuốn sách nào cũng đem đến những giá trị tốt đẹp. Những cuốn sách vô bổ sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm hồn người đọc. Không chỉ vậy, sách còn là nơi giúp con người giải trí sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng và mệt mỏi.
Advertisement
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Trong suốt ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, nhờ có sách mà Người đã có thêm nhiều hiểu biết về những nước đã đi qua. Người còn tìm đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng qua những trang sách. Đó cũng là vũ khí đắc lực để người truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản về nước, cổ vũ nhân dân chống lại kẻ thù…
Tóm lại, sách có một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của con người. Hãy yêu sách vì nó sẽ mở ra trước mắt bạn những chân trời mới tuyệt đẹp.
Bài văn mẫu số 9Có ai đó đã từng nói rằng: “Sách là người bạn lớn của con người”. Điều đó đã giúp cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của sách trong cuộc sống.
Đầu tiên, sách là một dạng văn bản được in ra thành quyển. Trong sách chứa đựng một khối lượng thông tin, kiến thức đã được đúc kết qua nghiên cứu, kinh nghiệm, của nhiều tác giả hoặc ý kiến cá nhân tác giả. Sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như khoa học, âm nhạc, văn học… Sách cũng giống như bạn bè vậy, có ảnh hưởng đến con người. Một cuốn sách hay có thể dạy cho chúng ta những bài học bổ ích. Sách giúp chúng ta thư giãn sau những giờ học tập, làm việc căng thẳng. Có đôi khi, sách còn chia sẻ niềm vui hay nỗi buồn với con người.
Mọi tri thức của nhân loại đều được lưu giữ trong kho tàng vô tận – sách. Một nhà văn đã từng khẳng định rằng “Sách là ngọn đèn sáng bất diệt của trí tuệ con người”. Bởi vậy mà khi đọc sách, con người có thể mở mang kiến thức. Cũng giống như đang trò chuyện với một người bạn hiểu biết, thì cũng học hỏi được nhiều điều. Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn trải qua trong cuộc sống. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn. Cùng với mặt tích cực, thì còn có mặt tiêu cực. Cuốn sách chứa đựng những nội dung xấu, cũng giống như người bạn xấu, sẽ gây ra ảnh hưởng không tốt đến chúng ta.
Qua những trang sách, chúng ta có thể tìm về với quá khứ, bước đến tương lai hoặc có thể phiêu lưu khắp mọi nơi trên thế giới. Harvey MacKay nói rằng: “Cuộc đời ta thay đổi theo hai cách: qua những người ta gặp và qua những cuốn sách ta đọc”. Khi bạn đọc một cuốn sách có nghĩa là đã tự cung cấp cho mình một nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác. Bạn cũng sẽ khám phá ra nhiều điều mới lạ mà trước đây bạn chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Đồng thời, có những cuốn sách còn giúp con người có thêm niềm tin, sức mạnh để vượt qua những khó khăn, nghịch cảnh trong cuộc sống. Chẳng phải đây chính là những điều một người bạn tốt có thể làm được?
Có thể khẳng định rằng, việc so sánh sách giống như một người bạn lớn là hoàn toàn đúng đắn. Sách quan trọng, bởi vậy cần có phương pháp đọc sách thật đúng đắn để phát huy hết vai trò của nó.
Bài văn mẫu số 10Có người đã từng khẳng định rằng: “Sách là người bạn lớn của con người” gợi cho chúng ta suy nghĩ về vai trò của những cuốn sách.
Có thể hiểu đơn giản, sách là một sản phẩm do con người sáng tạo ra dùng để lưu trữ khối lượng kiến thức khổng lồ của nhân loại. Còn bạn bè là những người có chung sở thích, lí tưởng, mục tiêu… và có tầm ảnh hưởng to lớn đến mỗi người. Cách so sánh “Sách là người bạn lớn của con người” cho thấy được tầm vai trò của sách với con người, cũng giống như vai trò của những người bạn vậy.
Một người bạn tốt sẽ giúp chúng ta học hỏi được nhiều điều bổ ích. Nguồn tri thức của nhân loại đã được gìn giữ, lưu truyền nhớ có sách. Khi đọc sách, chắc chắn chúng ta sẽ biết thêm nhiều kiến thức mới mẻ, khám phá ra nhiều điều thú vị trong cuộc sống. Một cuốn sách giúp bạn có thêm nguồn kiến thức mới, một bài học mới, một lối tư duy khác.
Không chỉ vậy, sách còn giúp bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho mỗi người. Đôi khi, những cuốn sách còn giúp chữa lành đi những vết thương mà bạn đã phải trải qua. Nhờ có sách, chúng ta cũng nhận ra những phần mà bản thân mình còn khiếm khuyết, để từ đó tự hoàn thiện chính mình trở nên tốt đẹp hơn.
Đồng thời, bạn có thể khám phá ra nhiều điều chưa từng thấy, hoặc thấy rồi nhưng theo một chiều hướng khác. Có đôi khi những cuốn sách còn giúp bạn xác định được cho mình những mục tiêu, gây dựng những ước mơ tốt đẹp. Qua những trang sách, chúng ta có thêm được niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi nghịch cảnh, khó khăn trong cuộc sống.
Hiểu được điều đó, chúng ta cần biết trân trọng những cuốn sách. Đồng thời, cần lựa chọn sách sao cho phù hợp với mục đích của bản thân, cũng như có được phương pháp đọc sách đúng đắn. Cũng nên tránh xa những cuốn sách có nội dung tiêu cực. Có như vậy, sách mới trở thành “người bạn lớn” của con người.
“Sách không chỉ là sách, chúng là cuộc sống, là trái tim và hạt nhân của những thời đại đã qua, là lý do mà con người lao động và chết, là cốt lõi và tinh hoa của bao cuộc đời” (Marcus Tullius Cicero – một nhà lý luận chính trị La Mã). Hãy yêu sách, trân trọng sách như yêu và trân trọng người bạn của mình.
Văn Mẫu Lớp 11: Tổng Hợp Dàn Ý Bài Câu Cá Mùa Thu (7 Mẫu) Dàn Ý Bài Câu Cá Mùa Thu
Dàn ý phân tích Câu cá mùa thu Dàn ý số 1
I. Mở bài
Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh tịnh
Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong thời gian tác giả ở ẩn
II. Thân bài
1. Hai câu đề
– Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” bé tẻo teo;
Màu sắc “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ
Cách gieo vần “eo”: giàu sức biểu hiện
– Cũng từ ao thu ấy tác giả nhìn ra mặt ao và không gian quanh ao ⇒ đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường
2. Hai câu thực
– Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:
Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam
– Sự chuyển động:
hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chăm chú quan sát của tác giả
“khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế
⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đó chính là “cái hồn dân dã”
3. Hai câu luận
– Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn:
Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu
Tầng mây lơ lửng: gợi cảm giác thanh nhẹ, quen thuộc gần gũi, yên bình, tĩnh lặng.
Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng không phải là màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ mà xanh thuần một màu trên diện rộng ⇒ đặc trưng của mùa thu.
Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co”: hình ảnh quen thuộc
Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng
⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng
4. Hai câu kết
– Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa gối buông cần”:
“ Buông”: Thả ra (thả lỏng) đi câu để giải trí, ngắm cảnh mùa thu
“Lâu chẳng được” : Không câu được cá
⇒ Đằng sau đó là tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, câu cá như một thú vui làm thư thái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với thiên nhiên của con người
– Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”
⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng , “cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương
5. Nghệ thuật
Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh
Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công
Cách gieo vần “eo” và sử dụng từ láy tài tình
III. Kết bài
Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Bài thơ đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu nước thầm kín mà thiết tha
Dàn ý số 2a. Mở bài
Trước kia, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng cũng có tác phẩm viêt về nông thôn, nhưng hình ảnh về cảnh quê nói chung còn mờ nhạt. Phải đến Nguyễn Khuyến, lần đầu tiên cảnh nông thôn mới thực sự đi vào văn học. Nguyễn Khuyến viết nhiều về thiên nhiên với ngòi bút ấm áp bình dị, có khi còn gửi gắm chút tâm sự. Một trong những bài thơ thể hiện nội dung trên là bài Câu cá mùa thu.
b. Thân bài
Từ tên bài thơ đến mọi chi tiết miêu tả đều trực tiếp hay gián tiếp làm rõ hai từ Thu điếu (Câu cá mùa thu). Hai câu đề cho thấy cảnh được báo hiệu từ tên gọi tác phẩm: có ao, có thu (hợp lại thành ao thu), có nước trong veo, có chiếc thuyền câu nhỏ. Đúng là bài thơ nói chuyện Câu cá mùa thu, tuy câu cá chỉ là hình thức bề ngoài. Các câu thơ tiếp theo đều được tổ chức xoay xung quanh “trục” này, dù người đọc có cảm tưởng tác giả nhấn mạnh vào yếu tố thu hơn yếu tố câu cá. Cảnh thu đã được nhìn từ con mắt của một người ngồi câu trên ao.
* Sắc thái riêng của mùa thu nông thôn Bắc Bộ
– Cảnh thu vừa trong vừa tình. Ao nước trong tưởng có thể nhìn thấu đáy (trong veo), sóng biêng biếc phản chiếu màu cây, màu trời, trời ít mây nên càng nổi bật màu xanh ngắt (xanh ở đây cũng có thể hiểu là trong). Tĩnh: mặt ao lặng, lạnh lẽo (cái lạnh) thường hay sóng đôi với cái lặng, sóng hơi gợn (gợn tí), gió khẽ đưa lá vàng, khách vắng teo, tiếng cá đớp bỗng nghe mơ hồ như có như không (cái động của liêng cá đớp bỗng càng làm nổi bật cái tình chung của cảnh). Ở đây, trong gắn liền với tĩnh.
– Đây là cảnh thu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, ở xứ đồng chiêm trũng. Các chi tiết miêu tả trong bài đều giàu tính hiện thực, hầu như không vướng chút ước lệ nào, có thể gợi những cảm xúc sâu lắng về quê hương.
– Dưới ngòi bút của tác giả, tất cả các sự vật được nhắc tới đều xứng hợp với nhau: ao thu nhỏ – thuyền câu bé, gió nhẹ – sóng gợn tí, trời xanh – nước trong, khách vắng teo – người ngồi câu trầm ngâm yên lặng, đặc biệt là các mảng màu xanh của nước, của tre trúc thật hoa diệu với màu xanh của bầu trời.
– Từ láy trong thơ chẳng những tạo ra vẻ thuần Nôm cho tác phẩm mà còn có tác dụng làm tăng nhạc tính. Từ láy vừa mô phỏng dáng dấp, động thái của sự vật, làm cho sự vật hiện lên sống động, vừa thể hiện được biến đổi tinh vi trong cảm xúc chủ quan của người sáng tạo: lạnh lẽo, tẻo teo, lơ lửng. Lạnh lẽo không hẳn nói về cái lạnh của nước mà nói về không khí đượm vẻ hiu hắt của cảnh vật cũng như tâm trạng u uẩn của nhà thơ. Tẻo teo có thể được giải thích là rất nhỏ (chiếc thuyền câu nhỏ), âm eo được lặp lại gợi liên tưởng về một “đối tượng” đang mỗi lúc một thu hẹp diện tích, phù hợp với cái nhìn của nhà thơ muốn mọi vật thu lại vừa trong tầm mắt, không mở ra quá rộng làm cho không khí suy tư bị loãng đi. Lơ lửng vừa gợi hình ảnh đám mây đọng lại lưng chừng giữa tầng không, vừa gợi trạng thái mơ màng của nhà thơ.
* Không gian trong thu điếu
– Cảnh trong Thu điếu là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Không gian Thu điếu là một không gian tĩnh, vắng người, vắng tiếng: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Các chuyển động rất nhẹ, rất khẽ không đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá khẽ đưa.
– Cá đâu đớp động dưới chân bèo không thể hiểu theo nghĩa cá đâu có đớp (nghĩa là không đớp). Từ đâu trong câu này là đại từ phiếm chỉ chứ không phải là hư từ phủ định. Một tiếng động duy nhất – tiếng cá đớp mồi càng làm tăng thêm sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ một cái “động” rất nhỏ. Đây là nghệ thuật lấy “động” nói “tĩnh”, một thủ pháp nghệ thuật gợi tả quen thuộc của thơ cổ điển.
* Tâm tình nhà thơ
– Nói câu cá nhưng thực ra không phải chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thực ra là đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng. Cõi lòng của nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. Tĩnh lặng trong sự cảm nhận độ trong veo của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi khe khẽ của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm đến thế, vì tâm cảnh đang trong sự tĩnh lặng tuyệt đối. Sự tĩnh lặng đem đến sự cảm nhận về một nỗi cô quạnh, u uẩn trong lòng nhà thơ.
– Bài thơ còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của tác giả: đó là một con người bình dị, gắn bó sâu sắc với quê hương, biết rung động với những vẻ đẹp đơn sơ của chốn thôn dã thanh bình, hướng về sự thanh sạch cao quý và luôn có tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời.
c. Kết bài
– Cảm nhân được vẻ đẹp u tĩnh của cảnh sắc mùa thu, tâm hồn thanh cao và niềm ưu tư của nhân vật trữ tình trong bài.
– Thấy được sự tinh tế, tài hoa trong cách miêu tả thiên nhiên và biểu lộ tâm trạng của nhà thơ.
Dàn ý cảm nhận bài Câu cá mùa thua. Mở bài
Giới thiệu bài thơ Câu cá mùa thu và tác giả
b. Thân bài
*Hai câu đề
Ao thu là một hình ảnh rất gần gũi với cuộc sống thường ngày, cùng với thời tiết se lạnh và dòng nước trong veo
Cảnh sắc màu thu ở vùng quê được thể hiện qua hai câu thơ
* Hai câu thực “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.
Hình ảnh sóng biếc gợn tí và hình ảnh lá vàng, cảm giác như những hình ảnh rất nhỏ bé
Không gian tĩnh lặng của mùa thu được tăng dần so với câu trước
Tâm hồn rất nhạy cảm, tinh tế của tác giả
*Hai câu luận
Sự êm đềm nhẹ nhàng
Cảm giác mông lung huyền ảo
Cảnh buồn, tĩnh mịch, lòng người nặng trĩu, luẩn quẩn không lối thoát
*Hai câu kết
Một bức tranh thiên nhiên hài hòa
Ném mọi tâm tư không vương vấn tới thế, thói đời
c. Kết bài
Nêu cảm nhận của em về bài thơ Câu cá mùa thu
Dàn ý phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ độc đáoI. Mở bài
– Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khuyến và bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu)
+ Nguyễn Khuyến (1838 – 1909), là người có tài năng, cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân sâu nặng.
+ Câu cá mùa thu nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Bài thơ ghi lại cảm nhận và gợi tả tinh tế cảnh sắc mùa thu ở làng quê Bắc Bộ đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm sự thời thế kín đáo của Nguyễn Khuyến.
– Dẫn dắt vấn đề: Nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong bài Vội vàng.
b) Thân bài
– Nêu tóm gọn hoàn cảnh sáng tác và nội dung của chùm thơ thu, bài Thu điếu.
– Những từ ngữ gợi nên phong vị riêng của mùa thu Bắc Bộ:
– Bức tranh mùa thu với những phong vị riêng của vùng quê Bắc Bộ Việt Nam: vẻ thanh sơ, dịu nhẹ
– Gợi nên nét đặc sắc của ao mùa thu
+ Nước trong veo, sóng gợn tí: sự tĩnh lặng, nước không chảy, đứng yên như một một kẻ “buồn thiu”.
– Sử dụng độc vận “eo”: Cách gieo vần “eo” là một từ vận rất khó gò vào mạch thơ, ý thơ nhưng tác giả lại sử dụng rất tài tình, độc đáo. Vần “eo” góp phần diễn tả một không gian nhỏ dần, khép kín, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ.
c) Kết bài
– Nêu tóm lược lại vấn đề: ngôn từ được sử dụng rất tài tình, độc đáo.
– Gợi mở vấn đề.
Dàn ý hình ảnh con người Nguyễn Khuyến1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến và bài thơ Câu cá mùa thu, dẫn dắt vào đề: Tác giả Nguyễn Khuyến là tác giả nổi bật trong thi ca Việt Nam bởi sở hữu cho mình chùm ba bài thơ thu, trong số chùm ba bài thơ thu đó có tác phẩm “Câu cá mùa thu”.
2. Thân bài
– Khái quát chung và những cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ
– Khái quát chung: Bài thơ là một bức tranh mùa thu đầy sự sống động và chân thực, không kém những nét bình dị đơn sơ mà thân thuộc
– Tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước. Tác giả hơn nữa rất thành công trong việc lột tả mùa thu ấy bởi chính ông đang cảm nhận vẻ đẹp ấy trên mảnh đất quê hương của mình
– Tâm trạng thời thế của tâm hồn thanh cao: Tâm trạng ấy mang trong mình nỗi u hoài, đôi khi lặng lẽ trầm ngâm, lúc thì giật mình thảng thốt
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung về tâm hồn Nguyễn Khuyến: Qua bài thơ “Câu cá mùa thu” chúng ta cảm nhận được trong tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Khuyến là sự gắn bó tha thiết với thiên nhiên.
Dàn ý phân tích bức tranh mùa thua) Mở bài
– Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
+ Nguyễn Khuyến là nhà thơ Nôm nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam.
+ “Câu cá mùa thu” là bài thơ thu tiêu biểu trong chùm ba bài thơ thu được viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Khuyến.
– Khái quát bức tranh mùa thu trong bài thơ: hiện lên với vẻ đẹp cổ điển vốn có của thi ca muôn đời với cái tĩnh lặng trong cảnh và tâm của người nghệ sĩ.
b) Thân bài
* Khái quát về bài thơ
– Hoàn cảnh sáng tác: Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi về quê ở ẩn với những thú vui tuổi già đó là đi câu cá. Cảnh tượng mùa thu diễn ra lặng lẽ êm đềm cộng hưởng với tâm trạng buồn bế tắc của nhà thơ lo lắng cho số phận người nông dân đã bật lên tứ thơ thu điếu.
– Giá trị nội dung: Bài thơ là bức tranh cảnh sắc mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước cùng tâm trạng đau xót của tác giả trước thời thế.
* Luận điểm 1: Bức tranh mùa thu được khắc họa từ sự thay đổi điểm nhìn
– Bức tranh mùa thu được miêu tả theo điểm nhìn:
+ Từ gần đến cao xa: từ “thuyền câu bé tẻo teo” trong “ao thu” đến “tầng mây lơ lửng”.
+ Từ cao xa trở lại gần: Từ “trời xanh ngắt” quay trở về với thuyền câu, ao thu.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa thu trong bài là bức tranh mùa thu tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất cho “mùa thu của làng cảnh Việt Nam”
– Những nét đặc trưng nhất của mùa thu Bắc Bộ được phác họa trong bức tranh mùa thu với đầy đủ màu sắc và đường nét:
+ Màu sắc:
“trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam
+ Nét riêng của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật:
Không khí mùa thu: thanh sơ, dịu nhẹ, nước trong, sóng biếc, đường nét chủ động nhẹ nhàng
Cái thú vị nằm ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo pha chung với một chút vàng của lá thu rơi.
Advertisement
+ Đường nét, chuyển động:
+ Sự hòa hợp trong hòa phối màu sắc:
Màu sắc thanh nhã đặc trưng cho mùa thu không phải chỉ được cảm nhận riêng lẻ, nhìn tổng thể, vẫn nhận thấy sự hòa hợp.
Các sắc thái xanh khác nhau tăng dần về độ đậm: xanh màu “trong veo” của ao, xanh biếc của sóng, “xanh ngắt” của trời
Hòa với sắc xanh là “lá vàng”: Sắc thu nổi bật hòa hợp, nổi bật với màu xanh của đất trời tạo vật càng làm tăng thêm sự hài hòa thanh dịu.
* Luận điểm 3: Bức tranh mùa thu được khắc họa đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn
– Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu nhưng tĩnh vắng:
+ Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co” : hình ảnh quen thuộc
+ Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng, làng quê ngõ xóm không có hoạt động nào của con người.
– Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”
* Đánh giá đặc sắc nghệ thuật miêu tả
– Bút pháp chấm phá lấy động tả tĩnh tài tình
– Ngôn ngữ giản dị, tinh tế, giàu sức gợi hình biểu cảm
– Cách sử dụng tử vận “eo” thần tình
– Sử dụng hình ảnh ước lệ tượng trưng
– Khai thác tối đa vỏ ngữ âm của ngôn ngữ
c) Kết bài
– Khái quát lại vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bài thơ.
– Nêu cảm nhận của em về cảnh thiên nhiên ấy.
Dàn ý Nghị luận bài Câu cá mùa thu1. Mở bài
– Giới thiệu vấn đề: Vẻ đẹp cô đơn của cảnh vật, con người trong bài thơ Câu cá mùa thu
– Trích đề.
2. Thân bài:
– Vẻ đẹp của cảnh vật mùa thu trong Thu điếu
+ Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” bé tẻo teo; ⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường.
+ Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh, đan xen là những chuyển động nhẹ nhàng ⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đó chính là “cái hồn dân dã”.
+ Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn ⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng
– So sánh điểm giống và điểm khác khi tác giả sử dụng các hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ với các tác phẩm khác, các nhà thơ khác.
– Vẻ đẹp của cô đơn của con người giữa mùa thu trong bài Câu cá mùa thu
– Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “Tựa gối buông cần”;
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương
3. Kết luận
– Đánh giá ý nghĩa của vấn đề.
-Rút ra bài học cho bản thân.
Văn Mẫu Lớp 12: Nghị Luận Về Câu Nói Nhân Bất Học Bất Tri Lý (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 12
Nghị luận Nhân bất học bất tri lý gồm dàn ý chi tiết kèm theo 5 bài văn mẫu hay được chúng tôi tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tư liệu tham khảo, trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết văn 12 ngày một hay hơn.
Dàn ý nghị luận Nhân bất học bất tri lýI. Mở bài:
– Dẫn dắt vào câu nói “Nhân bất học bất tri lý”: Cổ nhân xưa đã có câu dạy rằng “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, đây là câu nói nhắc nhở về vai trò của việc học hành đối với con người
II. Thân bài:
– Giải thích câu nói:
Ngọc bất trác bất thành khí: một viên ngọc tự nhiên vốn dĩ là quý giá nhưng nếu không trải qua quá trình mài giũa, cắt gọt sẽ không thể phô diễn được hết vẻ đẹp giá trị của nó.
Nhân bất học bất tri lý: con người với những bản năng tự nhiên sẽ vẫn có khả năng tồn tại trong xã hội tuy nhiên nếu không có học thức thì sẽ mãi không có tri thức, không hiểu biết về lý lẽ cuộc đời.
Phân tích ý nghĩa câu nói: Ngọc và người đều là những thứ quý, ngọc muốn trở nên quý giá phải qua mài giũa còn người muốn trở nên đáng quý thì phải có học tập, rèn luyện.
– Chứng minh câu nói:
– Dẫn chứng: Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã từng nói “Chúng ta phải học, phải cố gắng học nhiều. Không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”.
– Liên hệ thực tiễn: nếu bạn không có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông sẽ có rất ít công ty, xí nghiệp hay cơ quan tổ chức nào có thể tuyển dụng bạn vào làm việc.
III. Kết bài:
– Khẳng định ý nghĩa của câu nói: Mỗi con người chúng ta được sinh ra đều giống nhau, đều là những viên ngọc tự nhiên thuần khiết, có thể trở thành viên ngọc trang sức quý giá, long lanh và đắt đỏ hay không ấy là tùy thuộc vào ý thức học tập và rèn luyện bản thân của chúng ta.
Nghị luận Nhân bất học bất tri lý – Mẫu 1Người xưa có câu:
Nghĩa là ngọc mà không được mài dũa thì không thể trở thành món đồ có giá trị, cũng như người mà không học thì không biết được lý lẽ. Câu nói đó đã nói lên tầm quan trọng của việc học. Và ngày nay, để xác định một lần nữa mục đích của học tập, UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình.” Học là trau dồi kiến thức tổng quát, là tiếp thu những cái hay, cái mới, cái tiến bộ sáng tạo… là nâng cao khả năng chuyên môn và các kỹ năng khác, đồng thời là hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Trước hết là chúng ta “học để biết”, để nhận thức được đúng, sai, tốt, xấu, hiểu rõ được các vấn đề. Quả thật là nếu không có học gì cả thì bản thân chúng ta sẽ không có hiểu biết để đánh giá, nhận định đúng một sự việc, vấn đề. Điều quan trọng hơn là sau khi hiểu được, biết được thì ta phải “làm”, phải vận dụng những gì đã học được vào thực tiễn đời sống. Có như vậy ta mới biết biết được thành quả của việc học đã đem lại, đồng thời thông qua đó cũng đóng góp một phần không nhỏ vào các hoạt động chung của xã hội. Mặt khác chúng ta còn “học để chung sống” để tạo dựng các mối quan hệ giữa người với người được hòa thuận, tốt đẹp, đầm ấm hơn nhờ tiếp thu những quy tắc giao tiếp, cách ứng xử và sự tinh tế, nhạy bén trong từng nền văn hóa. Có như vậy cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên hòa hợp và có ích với cộng đồng. Hơn thế nữa là chúng ta còn “học để tự khẳng định mình”, để chứng tỏ bản thân mình học là vì mục đích rõ ràng với ý chí phấn đấu nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm đạt được mục tiêu đó. Đó là một quá trình lâu dài và đòi hỏi bản thân người học sự siêng năng, chăm chỉ, sự kiên trì, bền bỉ tới cùng.
Tất nhiên thành quả của quá trình “học và làm”như vậy sẽ đem lại nhiều lợi ích và xứng đáng với công sức mà ta đã bỏ ra. Như vậy câu nói của UNESCO khẳng định rằng học tập là bước cơ bản cung cấp cho ta tri thức đồng thời hướng dẫn ta sử dụng tri thức vào các mục đích tốt đẹp. Câu nói của UNESCO đã mở ra cho ta hai khía cạnh chính của việc học: thứ nhất là học phải thông qua việc tiếp thu kiến thức trên lý thuyết; thứ hai là học phải ứng dụng thực hành trong thực tế. Hai phạm trù này luôn sóng đôi với nhau, bổ sung cho nhau và không thể tách rời được. Đây cũng là một trong những bước chính yếu để việc học của một người đạt được kết quả cao. Từ đó tạo cho nền tảng phát triển vững chắc, có năng lực trong công việc chuyên môn, rèn luyện nhân cách bản thân tốt đẹp hơn, góp phần xây dựng xã hội văn minh, hiện đại, tiến bộ hơn về cả “bộ mặt” lẫn con người.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những người học với mục đích đối phó, qua loa cho có. Do vậy mà họ nắm kiến thức một cách hời hợt, không sâu không chắc. Những dạng người này cho dù có đạt được thành tích cao trong học tập thì cũng rất khó thành công một cách bền vững cho sau này được.
Tóm lại mỗi người trong chúng ta cần ý thức rõ việc học tập, xác định mục tiêu cụ thể, đúng đắn cho bản thân và nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm đạt được mục tiêu để tạo lập cho bản thân sự tự tin bản lĩnh mạnh mẽ về năng lực của bản thân, rèn luyện đạo đức và hoàn thiện nhân cách cao đẹp.
Nghị luận Nhân bất học bất tri lý – Mẫu 2Cổ nhân xưa đã có câu dạy rằng “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, đây là câu nói nhắc nhở về vai trò của việc học hành đối với con người. Từ thời xưa cổ nhân đã rất coi trọng học thức, người có học thức là người có tiếng nói trong xã hội, được mọi người kính trọng, tin tưởng. Ngày nay, xã hội mỗi ngày đều không ngừng thay đổi và phát triển, con người không chỉ cần có học thức, mà còn phải học tập không ngừng và mở mang kiến thức để có thể nhìn nhận đúng thực trạng xã hội, tự khẳng định giá trị của bản thân và giúp ích cho cuộc sống.
Câu nói “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý” gồm hai vế mang ý nghĩa bổ sung, giải thích cho nhau. Vế thứ nhất “Ngọc bất trác bất thành khí” có thể hiểu là một viên ngọc tự nhiên vốn dĩ là quý giá nhưng nếu không trải qua quá trình mài giũa, cắt gọt sẽ không thể phô diễn được hết vẻ đẹp giá trị của nó. Nếu viên ngọc không qua bàn tay con người tỉ mỉ, công phu, chịu những nỗi đau dưới lưỡi dao, đá mài thì sẽ không thể tạo ra những loại trang sức long lanh, đẹp mắt và quý giá. “Nhân bất học bất tri lý”, cũng giống như viên ngọc quý, con người với những bản năng tự nhiên sẽ vẫn có khả năng tồn tại trong xã hội tuy nhiên nếu không có học thức thì sẽ mãi không có tri thức, không hiểu biết về lý lẽ cuộc đời.
Viên ngọc trải qua mài giũa mới đẹp đẽ và quý giá, cũng giống như con người phải có học thức mới trở thành con người có giá trị, hoàn thiện nhân cách và có hiểu biết mới giúp ta sống một cuộc sống ý nghĩa, giúp ích cho xã hội. Câu nói đã chỉ ra rất rõ ý nghĩa của học thức và quá trình học tập đối với con người. Ngọc và người đều là những thứ quý, ngọc muốn trở nên quý giá phải qua mài giũa còn người muốn trở nên đáng quý thì phải có học tập, rèn luyện. Người tài giỏi cũng giống như một viên ngọc quý giá đã trải qua biết bao công đoạn mài giũa, họ say mê và miệt mài học tập không ngừng, chăm chỉ rèn luyện, học hỏi và tiếp thu để mở rộng hiểu biết. Chẳng có ai sinh ra đã vốn thông minh, lanh lợi, có nhân cách hoàn hảo, dù có tài năng thiên phú hơn người nếu không biết cách học tập, bồi dưỡng và rèn luyện thì tài năng đó cũng dần dần mai một đi và không còn giá trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta đã từng nói “Chúng ta phải học, phải cố gắng học nhiều. Không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Bác Hồ đã khẳng định rất rõ ràng ý nghĩa của việc học đối với bản thân mỗi người, vị trí con người trong xã hội cũng như hậu quả của việc không có học tập. Phải có học tập mới mong tiến bộ, có tiến bộ mới theo kịp sự phát triển của xã hội, phải không ngừng học tập để không bị tụt hậu và đào thải. Đơn giản như một người học sinh, nếu không cố gắng học tập sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ, không thể lên lớp, không cố gắng ôn thi sẽ không thể tốt nghiệp và đỗ đại học. Thời buổi hiện nay nếu bạn không có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông sẽ có rất ít công ty, xí nghiệp hay cơ quan tổ chức nào có thể tuyển dụng bạn vào làm việc, bạn sẽ thất nghiệp hoặc sẽ phải trở lại làm nông, như vậy chính là lạc hậu và tự đào thải mình khỏi xã hội.
Mỗi con người chúng ta được sinh ra đều giống nhau, đều là những viên ngọc tự nhiên thuần khiết, có thể trở thành viên ngọc trang sức quý giá, long lanh và đắt đỏ hay không ấy là tùy thuộc vào ý thức học tập và rèn luyện bản thân của chúng ta. Hãy cố gắng mài giũa mình bằng việc không ngừng học tập, rèn luyện và tu dưỡng để trở thành những viên ngọc sáng nhất, quý giá nhất.
Nghị luận Nhân bất học bất tri lý – Mẫu 3Học là trau dồi kiến thức, tiếp thu cái hay, mới, tiến bộ sáng tạo của nhân loại… là nâng cao khả năng chuyên môn, các kĩ năng, kĩ xảo,… đồng thời hoàn thiện nhân cách bản thân. Trước hết: chúng ta “học để biết”, để nhận thức được đúng, sai, tốt, xấu, hiểu rõ được các vấn đề. Điều quan trọng hơn: sau khi hiểu, ta phải “làm”, phải vận dụng những gì đã học được vào thực tiễn đời sống. Mặt khác chúng ta “học để chung sống” để tạo dựng các mối quan hệ giữa người với người được hòa thuận, tốt đẹp, đầm ấm hơn nhờ tiếp thu những quy tắc giao tiếp, cách ứng xử và sự tinh tế, nhạy bén trong từng nền văn hóa. Hơn thế nữa, chúng ta còn “học để tự khẳng định mình”, để chứng tỏ bản thân mình học là vì mục đích rõ ràng với ý chí phấn đấu nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm đạt được mục tiêu đó. Bởi thế, UNESCO đã đề xướng mục đích học tập: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Ngạn ngữ xưa có câu:
“Ngọc bất trác bất thành khí” có nghĩa là viên ngọc, đá quý… nếu không được mài giũa, đẽo gọt thì không thể làm cho nó thể hiện được vẻ đẹp và giá trị của nó. “Nhân bất học bất tri lý” có nghĩa là nếu con người không được học hành đầy đủ (học cả ở trường lớp và trường đời) thì không biết đến những lí luận, hiểu biết… về mọi sự vật hiện tượng được. Do vậy, sự học không bao giờ là thừa vì kiến thức như đường chân trời, càng đi càng thấy rộng.
Học hành có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc đời của mỗi con người. Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng: “Nếu còn trẻ mà không chịu học hành thì khi lớn lên sẽ chẳng thể làm được việc gì có ích”. Bên cạnh đó còn có những câu:“Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ”. Hay: “Dao có mài mới sắc, người có học mới nên”.
Nói đến học là nói đến trí lực, một năng lực suy nghĩ, một trực quan nhạy bén, một tư duy hợp lý. Điều ấy hết sức cần thiết cho tất cả mọi người.
“Nếu không có học hành đến nơi đến chốn thì lớn lên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì có ích”.
“Người mà không học khác gì mò mẫm trong đêm”.
Ngay từ lúc nhỏ, bất kì ai cũng phải được học hành. Có học, có khôn. Học không chỉ là quá trình rèn luyện tri thức mà còn là quá trình rèn luyện tình cảm và đạo đức. Do vậy, chúng ta phải xác định được “học với ai?” – học từ gia đình, từ nhà trường, từ xã hội… “học như thế nào?”, “học để làm gì?”,…
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những người học với mục đích đối phó, qua loa cho có. Do vậy mà họ nắm kiến thức một cách hời hợt, không sâu không chắc. Những dạng người này cho dù có đạt được thành tích cao trong học tập thì cũng rất khó thành công một cách bền vững cho sau này được. Thật ra “Văn bằng chứng tỏ bạn đã thông minh trong một giai đoạn nào đó, đặc biệt lúc đi thi. Nếu sự học của bạn đứng ngang đó, dù một đống văn bằng cũng không đảm bảo sự thông minh của bạn.”
Tóm lại mỗi người trong chúng ta cần ý thức rõ việc học tập, xác định mục tiêu cụ thể, đúng đắn cho bản thân và nỗ lực không ngừng nghỉ nhằm đạt được mục tiêu để tạo lập cho bản thân sự tự tin bản lĩnh mạnh mẽ về năng lực của bản thân, rèn luyện đạo đức và hoàn thiện nhân cách cao đẹp. Một viên ngọc dù có quý giá nhưng không mài giũa thì không trở thành một dụng cụ tốt, người không học thì không biết đạo nghĩa ở đời.
Nghị luận Nhân bất học bất tri lý – Mẫu 4Người xưa dạy: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, nghĩa là, hòn ngọc thô kia nếu chẳng được mài giũa thì cũng chẳng thành món đồ trân quý được, con người ta không học qua thầy hay bạn tốt, qua nghịch cảnh của đường đời thì chẳng thể hiểu đạo lý làm người.
Có chàng trai trẻ tự cho rằng mình là người đa tài, nhưng sau khi tốt nghiệp lại liên tiếp gặp trở ngại bế tắc, mãi vẫn chưa tìm được công việc như ý.
Anh cảm thấy mình thân mang tuyệt kỹ mà không gặp thời, hoặc có gặp thời lại không gặp được người biết trân trọng tài năng, do đó dần dà cảm thấy rất thất vọng với xã hội.
Nhiều lần công việc thất bại, bế tắc khiến anh tổn thương và tuyệt vọng. Anh cảm thấy, trên đời này không có Bá Nhạc để nhận biết anh là thiên lý mã. Đau khổ tuyệt vọng, anh lanh thang cho khuây khỏa. Một hôm anh đến bên bờ biển, dự định cũng sẽ kết thúc cuộc đời ở đây. Đúng lúc anh tự sát, thì một ông lão ở gần đó chạy đến, trông thấy và cứu anh. Ông lão hỏi anh tại sao phải tìm con đường chết, anh nói, anh không được mọi người và xã hội thừa nhận, không có ai hiểu và trọng dụng anh…
Ông lão nhặt từ dưới chân lên một hòn sỏi, để chàng trai trẻ nhìn xem, sau đó ném trở lại bãi sỏi đá, rồi nói với anh: “Cậu nhặt giúp tôi viên sỏi tôi vừa ném đi đó”.
“Không thể được”, anh trả lời.
Cụ già chẳng nói năng gì, móc từ trong túi mình ra một viên ngọc lóng lánh, rồi ném xuống bãi cát sỏi, sau đó lại nói với anh: “Cậu có thể giúp tôi tìm lại và nhặt viên ngọc đó không?”.
“Đương nhiên rồi”, anh nói.
“Thế thì có lẽ anh đã biết tại sao rồi nhỉ? Anh nên biết, hiện nay anh vẫn chưa là viên ngọc, nên anh không kể yêu cầu người khác lập tức thừa nhận anh được. Nếu anh muốn người khác thừa nhận mình, anh phải nghĩ cách để khiến mình trở thành viên ngọc mới được”.
Anh nghe rồi, cúi mặt chau mày, chẳng biết nói năng chi, quay trở về nghĩ suy về nhân thế, đời người, về ý nghĩa sinh mệnh.
Hòn ngọc thô vốn không khác gì viên sỏi, hòn đá, cũng bề ngoài thô ráp, tầm thường, nhưng sau khi mài giũa thì mới hiện ra vẻ đẹp sáng óng ánh.
Con người ai cũng có tài năng, khả năng thiên bẩm, cũng như hòn ngọc thô xấu xí, để lẫn với đám sỏi đá thì chẳng ai nhìn thấy, chẳng thể nhận ra.
Nếu chẳng trải qua sóng gió cuộc đời, vượt qua khó khăn trắc trở, đứng dậy sau những lần vấp ngã, thất bại, thì sao có thể rèn luyện ý chí, nuôi dưỡng tài năng, thành tựu nhân cách được.
Advertisement
Người xưa có dạy: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý”, nghĩa là, hòn ngọc thô kia nếu chẳng được mài giũa thì cũng chẳng thành món đồ trân quý được, con người ta không học qua thầy hay bạn tốt, qua nghịch cảnh của đường đời thì chẳng thể hiểu đạo lý làm người.
Người không hiểu đạo lý cuộc đời, dễ lầm tưởng về khả năng bản thân, hay coi mình là trung tâm của vũ trụ, muốn người người phải theo ý mình.
Người không hiểu đạo lý nhân sinh, hễ gặp khó khăn trở ngại là thất chí, hễ gặp thất bại là coi cuộc đời bất công, hễ gặp nghịch cảnh, khó nạn là tuyệt vọng, muốn tự kết thúc cuộc đời.
Cuộc đời con người rất trân quý, chúng ta đến với thế gian này chỉ có mấy chục năm, nhiều thì cũng trăm năm. Nếu không hiểu đạo lý làm người, ý nghĩa nhân sinh, thì kiếp này cũng trôi đi vô ích, khác nào loài cỏ cây, xuân tốt tươi, đông héo tàn, khác nào loài côn trùng, hè về ri rỉ hát ca, thu qua là đã lìa xa cõi đời.
Nếu mọi việc đều thuận lợi, dễ dàng, thì ai biết ai là người trí tuệ, ai kẻ phàm phu, ai biết ai là anh hùng tuấn kiệt, ai kẻ tiểu nhân. Vậy nên, người xưa có dạy, gian nan luyện chí anh hùng. Khó nạn càng lớn, thì khi thành tựu càng vĩ đại.
Nghị luận Nhân bất học bất tri lý – Mẫu 5Sống trong xã hội, con người cần có quá trình học tập để nhận thức về xã hội và ý thức về bản thân mình, nhằm mục đích hoàn thiện nhân cách sống của mỗi con người trong cộng đồng. Ngày nay con người sống trong xã hội hiện đại nhưng con người cũng mang bản năng tự nhiên. Bản năng tự nhiên thì ít mang tính xã hội mà nó mang tính cá nhân. Vì thế cũng như ngọc phải mài giũa mới thể hiện được hết vẻ đẹp và giá trị của nó thì con người cũng phải học tập, thực hành trong lao động sáng tạo… sẽ thể hiện được những vẻ đẹp và giá trị của mình trong xã hội. Chính vì thế ngạn ngữ có câu: “Ngọc bất trác bất thành khí. Nhân bất học bất tri lí”.
“Ngọc bất trác bất thành khí”: có nghĩa là viên ngọc, đá quý… nếu không được mài giũa, đẽo gọt thì không thể làm cho nó thể hiện được vẻ đẹp và giá trị của nó. Từ một viên đá quý, một viên ngọc lấy trong tự nhiên nếu không có bàn tay gọt đẽo, mài giũa của con người thì không thành những sản phẩm trang sức đẹp, quý giá được.
“Nhân bất học bất tri lí”: có nghĩa là nếu con người không được học hành đầy đủ (học cả ở trường lớp và trường đời) thì không biết đến những lí luận, hiểu biết… về mọi sự vật hiện tượng được. Người không có học thì làm sao có những hiểu biết, không có hiểu biết thì không có những lí lẽ, lập luận, bàn luận… về mọi vấn đề của đời sống con người và xã hội. Vì thế nếu là ngọc thì phải có sự gọt đẽo, mài giũa mới thể hiện được vẻ đẹp và giá trị của nó. Con người cũng như ngọc phải được học tập đầy đủ những kiến thức về tự nhiên, xã hội thì mới trở thành người hoàn thiện về nhân cách, về những hiểu biết và vận dụng những hiểu biết ấy trong cuộc sống bản thân và xã hội.
Ngọc là đáng quý! Con người là đáng quý! Nhưng nếu không có sự học tập, mài giũa, rèn luyện thì không trở thành hữu ích cho cuộc sống của chính họ và cho xã hội. Cho nên đã là ngọc thì phải mài giũa, đã là người thì phải học tập. Ta có thể ví người tài là một viên ngọc quý, cần phải học tập nhiều, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện trí tuệ nhiều thì viên ngọc ấy ngày càng thành công, càng khẳng định được vai trò, tầm quan trọng của mình đối với xã hội. Nếu con người sinh ra đã là thông minh nhưng nếu không học tập, mài giũa tu dưỡng nhân cách, phẩm chất và tài năng thì không trở thành thiên tài được.
Hồ Chí Minh có bài thơ “Giã gạo” đã thể hiện rất đúng tinh thần ấy:
Chúng ta là những viên ngọc quý, nhưng viên ngọc ấy có thể hiện hết vẻ đẹp và giá trị của mình hay không ấy là do gọt đẽo mài giũa, học tập và tu dưỡng đạo đức, trí tuệ. Có nhiều người đã “thành khí”, đã rất “tri lí” nhờ học tập, tu dưỡng thường xuyên. Nhưng cũng có nhiều người đã thất bại, không thể hiện được vẻ đẹp và giá trị của mình do không thường xuyên mài giũa, học tập. Hãy tự rèn luyện, tu dưỡng bản thân để mỗi chúng ta đều là những viên ngọc trong sáng tinh khôi nhất.
Bài Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Tục Ngữ “Đèn Nhà Ai Nhà Nấy Rạng” Những Bài Văn Mẫu Lớp 7 Hay Nhất
I. Mở bài
– Bên cạnh lối sống yêu thương đùm bọc trong xã hội, còn một lối sống thờ ơ, vô cảm chỉ biết đến mình
– Người xưa có câu “Đèn nhà ai nhà nấy rạng” để chỉ lối sống này
II. Thân bài
1. Giải thích
– Đèn nhà ai nhà nấy rạng: chỉ những chiếc đèn chỉ sáng trong căn nhà mà nó đang được thắp sáng
– Nghĩa bóng: câu tục ngữ chỉ một lối sống ích kỉ của một bộ phận người trong xã hội sống chỉ biết bản thân mình, không hề biết quan tâm đến những người xung quanh
2. Bàn luận
– Hiện nay lối sống này đang ngày càng phổ biến
– Nhìn người bị tai nạn trên đường cần giúp đỡ nhưng mọi người đều phớt lơ không bận tâm
– Có những gia đình bị cháy, ngoài những người hàng xóm sang cùng chung sức dập tắt hỏa hoạn, còn có những người vẫn bình chân như vại, thờ ơ
– Phê phán lối sống ích kỉ, vô cảm với những người xung quanh
III. Kết bài
Câu tục ngữ đã phản ánh đúng lối sống ngày nay
Chúng ta cần lên tiếng cùng nhau xóa bỏ lối sống này để tạo nên một xã hội tốt đẹp hơn.
Hiện nay có không ít người chỉ biết sống cho chính bản thân mình, không quan tâm người khác nghĩ gì và sống như thế nào. Đây là lối sống ích kỉ, hẹp hòi, không mở rộng mình ra để sống hòa đồng trong môi trường tập thể. Bởi vậy cha ông ta mới có câu “Đèn nhà ai nhà nấy rạng” để nói đến vấn đề này trong xã hội.
Cuộc sống của chúng ta không thể được tạo nên từ một cá nhân hay một vài cá nhân, nó được tạo nên từ rất nhiều người, đồng nghĩa với nhiều mối quan hệ. Bên cạnh những người sống cởi mở, quan tâm đến những người xung quanh, động viên chia sẻ khi họ gặp khó khăn thì vẫn còn có những người chỉ sống vì bản thân, cái gì có lợi cho mình thì sống. Còn không thì họ chỉ mặc kệ, coi như không phải việc của mình nên không làm.
Đây là lối sống của những kẻ ích kỉ, hẹp hòi, sống chỉ biết mình mà không biết cho người. Liệu rằng cuộc sống của những người như thế này sẽ ra sao. Chắc chắn là không tốt đẹp trong khi xã hội cần lối sống tập thể, cộng đồng. Ấy vậy mà họ lại sống đi ngược lại với mong muốn của xã hội sẽ nhận lấy nhiều điều chẳng mấy tốt đẹp.
Họ sống như vậy thì sau này họ sẽ nhận lấy nhiều hậu quả không đáng có. Khi sống ích kỉ với người sẽ khiến cho người khác xa lánh. Mà sự xa lánh của lòng người thực sự đáng sợ. Chẳng phải họ ích kỉ đâu, chỉ là vì bạn ích kỉ, bạn chỉ biết sống cho bản thân mình thì cuối cùng bạn sẽ nhận lại những điều đó mà thôi.
Advertisement
Có rất nhiều người trong cuộc sống luôn luôn giúp đỡ người khác, quan tâm đến cuộc sống cũng như suy nghĩ của người khác. Dù cho họ không giàu, không tài giỏi nhưng vẫn sẽ được mọi người yêu quý. Bởi người ta quý tấm lòng mà họ đã cho đi rất nhiều như thế.
Bởi vậy mới nói rằng cuộc sống mà chúng ta đang sống là cuộc sống tập thể, cần sự chia sẻ và quan tâm; không cần những người ích kỉ hẹp hòi
Câu nói “Đèn nhà ai nhà nấy rạng” đã lên án, phê phán lối sống ích kỉ đó. Khuyên răn mọi người nên sống cởi mở, quan tâm đến cuộc sống của những người xung quanh. Bởi sau này chúng ta sẽ nhận lại được nhiều điều hơn chúng ta nghĩ.
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích 16 Câu Đầu Bài Thơ Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Dàn Ý + 8 Mẫu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu
Dàn ý Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
Đặng Trần Côn (không rõ năm sinh năm mất) quê ở làng Nhân Mục, Thanh Trì, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội, sống vào thời Lê Trung Hưng.
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn là tác phẩm viết bằng chữ Hán gây tiếng vang lớn trong giới nho sĩ đương thời với nhiều bản dịch và phỏng dịch Nôm khác nhau (Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Khản, Phan Huy Ích, Bạch Liên Am Nguyễn). Bản hiện hành là bản dịch thành công nhất.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến 216) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ khát khao được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
– Giới thiệu khái quát 16 câu thơ đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
a. Hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị
– “Thầm reo từng bước”: Bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.
– “Rủ thác đòi phen”: Vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm
→ Hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ
– Chữ “vắng, thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ
b. Thao thức ngóng trông tin chồng
– Ban ngày:
Người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.
Nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
– Ban đêm:
Người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san sẻ nỗi lòng cùng nàng.
Thực tế: “Đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức đặc biệt khẳng định rồi lại phủ định, ngọn đèn có biết cũng như không vì nó chỉ là vật vô tri không thể san sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ.
So sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. Nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong lòng người.
– Hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bóng người”.
“Hoa đèn” dầu bấc ngọn đèn, thực tế là than. Cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình để rồi chỉ con hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờ chồng nhưng cuối cùng nhận lại sự cô đơn, trống trải.
Liên hệ với nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh trở về với chiếc bóng năm canh:
c. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.
– “Gà gáy”, “sương”, “hòe”: Là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả
– Từ láy “eo óc, phất phơ”: Cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.
→ Dưới con mắt trống trải cô đơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, êm ả nay trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.
d. Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.
– “Khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: Thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.
– Biện pháp so sánh kết hợp với các từ láy giàu giá trị gợi hình gợi cảm “dằng dặc, đằng đẵng” cho thấy sự cảm nhận khác thường về thời gian, mỗi phút mỗi giờ ngắn ngủi trôi qua mà nặng nề như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.
→ Câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ
e. Hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.
– Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ
– Mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:
Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành
Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
⇒ Tiểu kết:
– Nội dung: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.
– Nghệ thuật:
Giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng
Khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội tâm
Các biện pháp tu từ: So sánh, điệp từ, từ láy.
3. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung của đoạn thơ đối với đoạn trích: Khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn chứa thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau khổ của con người.
Dàn ý phân tích 16 câu đầu bài tình cảnh lẻ loiI. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm
– Giới thiệu về đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
II. Thân bài
1. 16 câu đầu: Nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ
a) 8 câu thơ đầu
– Không gian:
Hiên vắng: vắng vẻ, hiu quạnh
Khuê phòng: cô đơn, nhớ nhung
– Thời gian:
Đèn: ban đêm, thời gian của tâm trạng
Hoa đèn: thời gian qua lâu gợi nỗi niềm khắc khoải
– Hành động của người chinh phụ:
+ Dạo – gieo từng bước: đi đi lại lại, quanh quanh, quẩn quẩn
⇒ Nỗi nhớ như ngưng đọng trong từng bước đi
Rủ thác: hành động vô thức, không có chủ đích
Nghe ngóng tin tức: nhớ mong, khao khát người chồng trở về
Giãi bày, chia sẻ với ngọn đèn – vật vô tri vô giác
– Biện pháp nghệ thuật:
Điệp ngữ vòng: đèn biết chăng – đèn có biết, diễn tả tâm trạng buồn triền miên, kéo dài lê thê trong thời gian và không gian, dường như không bao giờ đứt, ngừng.
Câu hỏi tu từ: đèn biết chăng? ⇒ như một lời than thở, thể hiện nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng luôn day dứt không yên trong người chinh phụ.
b) 8 câu thơ còn lại
– Cảnh vật thiên nhiên:
+ Gà eo óc gáy – sương năm trống: gà gáy báo hiệu canh năm, báo hiệu người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm
⇒ Tiếng gà khắc khoải như xoáy sâu vào tính chất tĩnh lặng của không gian, đồng thời cũng xoáy sâu vào tâm trạng người chinh phụ
+ Hòe phất phơ: cảnh vật quạnh hiu
– Cảm thức của người chinh phụ về thời gian:
Hòe: bóng cây hòe ngoài sân, trong vườn ngắn rồi lại dài, dài rồi lại ngắn, thể hiện sự trôi đi của thời gian – thời gian của xa cách và nhớ thương
Thời gian của tâm trạng:
Khắc, giờ ———— niên
Mối sầu ———— biển xa
– Hành động của người chinh phụ:
Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng lành
Soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
Gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. Sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
⇒ Sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí
⇒ 16 câu thơ đầu thể hiện tình cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn sầu muộn của người chinh phụ.
2. Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ
a) 6 câu thơ đầu
– Hình ảnh thiên nhiên:
Gió đông: gió mùa xuân, gió báo tin vui, thể hiện sự sum họp, đoàn viên.
Non Yên: núi Yên Nhiên, nơi phương bắc xa xăm – nơi người chồng đang chinh chiến.
– Biện pháp nghệ thuật
Hình ảnh ước lệ: non Yên.
Điệp ngữ vòng: non Yên, trời
Từ láy: thăm thẳm, đau đáu.
⇒ Không gian vô tận, mênh mông, không giới hạn, không chỉ là không gian vô tận ngăn cách hai vợ chồng, mà còn là nỗi nhớ không nguôi, không tính đếm được của người chinh phụ, là tình yêu thương của người vợ nơi quê nhà.
b) 2 câu còn lại
– Hai câu thơ mang tính khái quát, triết lý sâu sắc
– Lời thơ chuyển sang độc thoại nội tâm, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng người chinh phụ với hình ảnh người chinh phụ tràn ngập trong tâm tưởng.
⇒ 8 câu thơ cuối như lời gửi gắm nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi đến người chồng nơi biên ải xa xôi.
III. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
– Liên hệ với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến có chồng đi lính
Phân tích 16 câu đầu Chinh phụ ngâm – Mẫu 1Đặng Trần Côn là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nhiều trai tráng phải giã từ người thân để ra trận. Sống trong thời kỳ ấy, cảm nhận được nỗi thống khổ của người vợ lính, Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán. Đó là một khúc ngâm đầy cảm xúc lột tả tình cảnh của người chinh phụ lúc bấy giờ. Trong đó đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là đoạn trích hay đặc biệt là 16 câu thơ đầu đã thể hiện rõ nét nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.
Đã có nhiều bản dịch đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nhưng trong đó, bản dịch thành công nhất là bản dịch của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống người chinh phụ. Mười sáu câu đầu đoạn trích tác giả đã mở ra khung cảnh người chinh phụ chờ chồng trong tâm trạng u buồn, đơn độc.
Những hành động của người chinh phụ chậm rãi làm dâng lên cảm giác cô đơn, đau buồn:
Nhịp thơ nhẹ nhàng đi sâu vào cảm xúc. Hành động của người chinh phụ hiện ra với dáng vẻ u buồn. Những động từ “dạo” “gieo từng bước” ta thấy được sự nặng nề với tâm trạng bâng khuâng, lo lắng. Dường như không gian im lặng đến mức nghe được cả tiếng bước chân của người chinh phụ. Tất cả mọi hành động, cảnh vật đều thể hiện sự cô độc. Người phụ nữ ấy chẳng thể tìm được một người để sẻ chia. Thế nên hành động của người chinh phụ cứ lặp đi lặp lại vô nghĩa, kéo màn lên rồi lại buông mành xuống. Từ sự cô độc đó, sâu trong tâm hồn của người chinh phụ lại thầm thì trách móc:
Ở đây ta thấy được rõ nét sự nhớ nhung của người chinh phụ qua hình ảnh “chim thước”. Có lẽ nàng đang chờ đợi một tin tốt lành từ loài chim ấy. Vậy mà chờ hoài, đợi mãi chẳng thấy đâu. Thế nên nàng đâm trách chim thước chẳng báo tin tức gì, để nàng phải ngóng, mong khắc khoải. Tác giả cũng sử dụng nghệ thuật đối lập “ngoài rèm”, “trong rèm” để thấy được nỗi cô đơn đã ăn sâu vào cả không gian bên trong và bên ngoài.
Thế nên, nàng cần lắm một người bạn tâm sự cùng mình. Có lẽ vậy, nhà thơ đã nhân hóa “đèn” khuya thành một người bạn của người chinh phụ. Nhưng ngay cả chiếc đèn cũng phũ phàng với người phụ nữ đang lẻ loi ấy. Đáng nhẽ lúc này “đèn” phải thao thức cùng nàng suốt đêm, ấy thế nhưng “đèn” đã tắt ngay khi người chinh phụ cần lắm sự sẻ chia. Điều ấy làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “đèn” cũng chỉ là một vật vô tri vô giác chẳng thể nào sẻ chia được điều gì.
Câu hỏi tu từ “trong rèm dường đã có đèn biết chăng” tác giả sử dụng cho người đọc cảm nhận được những cung bậc cảm xúc người chinh phụ đã trải qua. Và câu nói của người chinh phụ bật ra đau như xé lòng “Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”. Vì chẳng có ai bên cạnh để sẻ chia nên nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn ấy.
Nỗi buồn của nàng giờ đây chẳng nói nên lời. Có lẽ nỗi buồn ấy đã quá lớn và hiện lên mỗi ngày. Ở đây, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời mình. Dường như cuộc đời nàng giống như hoa đèn vậy cũng mau lụi tàn. Càng nghĩ, nàng càng buồn khiến cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng, giống như Nguyễn Du đã miêu tả “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”:
Trời về khuya, không gian càng yên tĩnh khiến tiếng gà gáy làm tâm trạng thêm u uất. Tiếng gà “eo óc” là tiếng gáy thưa thớt, thể hiện sự đơn độc. Tác giả đã dùng hình ảnh “rủ bóng bốn bên” để miêu tả thời khắc không gian chìm vào đêm tối. Đã qua năm canh vậy mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu thương nhớ chồng.
Tác giả đã so sánh “khắc giờ” như “niên”. Có lẽ khi tâm trạng buồn thì một giờ mà như một năm, dài đằng đẵng khiến nỗi buồn, cô đơn ấy các thêm sâu đậm. Cùng với đó là từ láy “đằng đẵng” “dằng dặc” làm cho nỗi đau cứ triền miên không dứt. Ở đây ta thấy được sự tinh tế của tác giả khi lấy động tả tĩnh. Nhờ đó làm nổi bật lên không gian, thời gian. Để quên đi nỗi buồn trước mắt, người chinh phụ tìm đến những thú vui tao nhã:
Muốn quên đi nỗi buồn, nỗi cô đơn nàng tìm đến tô son điểm phấn, gảy đàn. Ấy thế nhưng những thú vui tao nhã mà nàng tìm đến lại càng khiến nàng chìm đắm vào nỗi sầu miên man. Khi đốt hương, mùi hương mê mải ấy lại khiến nàng rơi vào sự mơ màng làm nỗi sầu càng dân cao, Khi soi gương điểm phấn tô son, nàng lại xót xa hơn cho phận mình, nàng chợt nhận ra nhan sắc của mình đang dần phai mòn theo năm tháng. Không có chồng ở bên cạnh chia sẻ, những ngày xuân chẳng còn nhiều. Khi đánh đàn lại khiến nàng nhớ lại những chuyện ngày xưa khi chồng còn kề cạnh. Thế nên nàng sợ “dây uyên đứt”, sợ “phím loan chùng” – những nỗi sợ cứ thế bủa vây quanh nàng.
Tìm đến những thú vui để quên đi nỗi buồn, nhưng hành động lại “gượng” thể hiện sự miễn cưỡng. Dường như chỉ vì quá cô đơn mà nàng mới gắng gượng để làm. Nhưng lúc này dù thú vui nào thì cũng chẳng làm nàng vui. Bởi vì ngay lúc này bao trùm tâm trạng nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến. Điều mà người chinh phụ mong mỏi ngay lúc này chính là nghe được một lời động viên từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều im lặng, chẳng có tin tức.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhiều điệp từ, hình ảnh so sánh, tác giả đã vẽ ra tâm trạng rối bời của người chinh phụ. Sự cô đơn, lẻ loi của nàng được thể hiện rõ nét. Hình ảnh của người chinh phụ chính là hình ảnh đại diện cho một lớp người trong thời kỳ này. Nó lột trần tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Người phụ nữ phải hy sinh tuổi xuân, sống trong sự cô đơn, tuổi khổ để chờ chồng mặc dù chẳng biết bao giờ mới là lúc đoàn viên.
Qua phân tích 16 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ta thấy được những nỗi cô đơn của người phụ nữ khi có chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi cô đơn kéo dài triền miên theo không gian và thời gian. Nỗi cô đơn ấy chẳng có điều gì có thể xoa dịu bớt được. Có chăng chỉ là sự hy vọng ở người phụ nữ làm cho họ trở nên mạnh mẽ hơn. Qua đây ta cũng thấy được sự tài hoa của Đặng Trần Côn khi chạm đến trái tim người đọc bằng những ngôn từ cảm xúc.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – Mẫu 2Là con người, ai cũng khiếp sợ chiến tranh, bởi chiến tranh gắn liền với máu và nước mắt. Vào thế kỉ thứ XVIII, tình hình xã hội nước ta vô cùng rối ren, chính trị bất ổn, chiến tranh liên miên. Triều đình cần nhiều binh lính để chiến đấu. Vì vậy, rất nhiều trai tráng đã từ giã gia đình và gia nhập quân ngũ. Nhưng “cổ lai chinh chiến khứ nhân hồi” tức có nghĩa là xưa nay, đi chiến đấu có mấy ai trở về. Thật vậy, sự ra đi không hẹn ngày về của những người chồng đã khiến cho người vợ của họ, những người thiếu phụ đã trở thành những người chinh phụ. Người khuê phụ trong bài thơ “Khuê oán” của Vương Xương Linh từng thốt:
Nỗi niềm này một lần nữa chúng ta lại bắt gặp trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” nguyên tác của Đặng Trần Côn. Đây là đoạn trích trong khúc ngâm được xem là tiêu biểu nhất cho thể loại khúc ngâm trong văn học Việt Nam. Dưới trí tuệ của dịch giả Đoàn Thị Điểm – người “tài sắc nương tử xưa hiếm nay không, xuất khẩu thành chương, bản chất thông minh” mà tuyệt tác Hán ngôn “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn một lần nữa thăng hoa. Đặc biệt 16 câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm, dù ngắn nhưng Đoàn Thị Điểm đã làm nổi bật lên bức tranh tâm trạng của người chinh phụ với những cảm nhận về thời gian chờ đợi và nỗi cô đơn, buồn nhớ, sầu lo dành cho người chinh phu:
Nửa đầu thế kỷ XVIII, “chính sự hư hỏng, thuế khóa nặng nề”, khắp nơi nông dân vùng lên khởi nghĩa và chúa Trịnh đã tiến hành nhiều cuộc đánh dẹp. Những cảnh vợ chồng chia lìa, nhà cửa ly tán đã khiến Đặng Trần Côn xúc động mà làm ra khúc ngâm. Tác phẩm là lời tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa; đồng thời là tiếng nói khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi vốn ít được thơ văn các thời kỳ trước chú ý. Nguyên tác “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn gồm 477 câu viết bằng chữ Hán theo thể trường đoản cú. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, có lẽ do đồng điệu với người chinh phụ, đã diễn Nôm thành 408 câu song thất lục bát. Đoạn trích trên được trích từ câu 193 đến câu 288 của nguyên tắc, là tình cảnh và tâm trạng của người chinh phụ trong những năm tháng chồng đi đánh trận: tình cảnh cô đơn và khát khao được giãi bày, chia sẻ.
Tâm trạng của người chinh phụ trước hết được bộc lộ thông qua không gian và hành động:
Thủ pháp đối “hiên vắng” với “rèm thưa” không chỉ miêu tả không gian mà còn hé lộ tâm trạng. “Hiên vắng” cho thấy chẳng có ai ngoài người chinh phụ nhưng thực chất trong nhà còn có cha mẹ chồng và các con, đâu chỉ mình nàng. Song, cái vắng lặng kia của không gian phải chăng toát ra từ cõi lòng cô đơn, trống vắng của người chinh phụ? Qua con mắt ngóng trông, bức rèm dẫu có dày, cũng trở thành “rèm thưa”. Ngoài không gian, hành động nhân vật cũng là phương tiện miêu tả nội tâm nhân vật hiệu quả. Hai câu thơ có đến bốn động từ chỉ hoạt động: “dạo”, “ngồi, “rủ”, “thác” nhưng trọng tâm câu thơ lại không rơi vào những chữ ấy mà nó nằm ở những trạng từ diễn tả tính chất của hành động: “thầm gieo từng bước” và “đòi phen”. “Thầm gieo từng bước” không phải “đi” hay “bước” mà là “gieo” tức âm thầm mà vẫn nặng lòng, làm nặng luôn cả bước chân! Bước chân nặng nề ấy dường như độc giả còn bắt gặp trong “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều:
Bài thơ “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều cũng là một bài thơ viết về nỗi lòng của người phụ nữ
Thật buồn khi những bước chân ấy đều là những bước chân mang nỗi lòng của những người phụ nữ đáng thương. Còn “đòi phen” là một từ cổ, có nghĩa là “nhiều lận”. Động tác buông rèm và cuốn rèm được lặp đi lặp lại trong dáng vẻ vô hồn, vô thức. Không có gì thay đổi, nghĩa là kết quả của chuỗi ngày đợi chờ trong mỏi mòn, hy vọng trong vô vọng. Đó là sự tái hiện nhiều khoảnh khắc giống nhau, đó cũng là sự dồn nén tâm trạng.
Không chỉ qua không gian và hành động mà tâm trạng của người chinh phụ còn được bộc lộ rõ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm:
Hướng ra “ngoài rèm”, nàng mong chờ chim thước báo tin vui, rằng chồng đã trở về an lành. Nhưng tuyệt nhiên, điều nhận lại chỉ là sự im lặng đến đáng sợ: “Ngoài rèm thước chẳng mách tin”, và thế là đành trở về độc thoại trong nỗi cô đơn của chính mình. Câu thơ như một cái lắc đầu tuyệt vọng. Câu hỏi tu từ “trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” mang hình thức đối thoại với ngọn đèn, nhưng thực chất là độc thoại nội tâm đấy thôi, nào có ai để mà giãi bày, chia sẻ! Thủ pháp đối “trong rèm – ngoài rèm” cho thấy một hiện thực tù túng: nhìn ra ngoài hay nhìn vào trong thì cuối cùng cũng chỉ quanh quẩn, trói buộc bên song cửa sổ, trong một không gian chật hẹp. Không gian tự thân đã chứa đựng khả năng biểu đạt tâm trạng. Càng vắng lặng, chật hẹp, tù túng thì càng cảm nhận rõ hơn hết nỗi trống vắng, cô đơn. Và vì thế mà càng bị nỗi sầu bủa vây, không cách nào giải tỏa.
Cách nói có vẻ mâu thuẫn “Đèn có biết dường bằng chẳng biết” cho thấy một nỗi hụt hẫng, thất vọng. Ngọn đèn được nhân hoá với mục đích thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ nỗi lòng của người chinh phụ. Nhưng suy cho cùng đèn cũng chỉ là một vật vô tri vô giác mà thôi! Trong tâm hồn người chinh phụ tưởng chừng đã lóe lên niềm vui, bởi đã có người đồng cảm, sẻ chia, để thỏa niềm khao khát được giãi bày và thoát khỏi cảnh sống cô đơn, chờ đợi của hiện tại. Nhưng cũng ngay lập tức nàng nhận thức được hiện thực không gì khác ngoài: khổ đau, chia lìa và vô vọng, càng mong mỏi, khát khao lại càng bế tắc, tuyệt vọng. Thật bi kịch khi càng muốn thoát ra thì nàng càng bị nỗi sầu muộn trói chặt hệt như người sắp đuối nước tưởng đã tìm thấy chiếc phao cứu sinh. Nào ngờ…
Hình ảnh “ngọn đèn” vốn là thi liệu quen thuộc trong ca dao viết về nỗi nhớ tình yêu:
Hay:
Rồi lại:
Trò chuyện với “ngọn đèn” là thế! Song, “lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” – là lời người chinh phụ tự bạch với chính mình. Tính từ “bi thiết” không chỉ diễn tả nỗi buồn mà hơn thế, đó còn là nỗi đau tự ý thức về tình cảnh cô đơn và nỗi sầu không ai chia sẻ được đang trở đi trở lại vò xé tâm can người chinh phụ.
Tâm trạng của người chinh phụ, cuối cùng, được bộc lộ thông qua ngoại hình nhân vật:
Nét mặt và dáng vẻ “buồn rầu”, cô đơn, tiều tụy ấy là kết quả của những chuỗi ngày mòn mỏi đợi chờ, cho thấy sự sống kéo lê, tàn tạ, nhạt nhòa. Phải chăng đó chỉ là tồn tại, nào phải sống cuộc sống của một con người? Nhìn kiếp “hoa đèn” lụi tàn, người chinh phụ tự thương cho kiếp mình tàn lụi. Người và vật cuối cùng cũng chẳng khác gì nhau. Thật đáng thương! Thật đau xót! Đặc tả những nét ngoại hình ấy của nhân vật, ngòi bút không chỉ xoáy sâu vào từng ngóc ngách để mổ xẻ tâm lí nhân vật, mà hơn thế, chính tác giả và dịch giả đang sống và trăn trở cùng nhân vật, đau nỗi đau của nhân vật trữ tình. Đó là dùng chiều sâu của tâm hồn, chiều rộng của tình thương để thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ cùng nhân vật. Vì thế mà ở dòng thơ cuối cùng, lời nhân vật, lời tác giả và dịch giả dường như đã hòa làm một trong một niềm đồng cảm.
Sau những tháng ngày khắc khoải trong mong chờ: hết “dạo hiên vắng” lại “ngồi rèm thưa”, hết ngóng tin từ chim thước ngoài rèm, đến tìm kiếm một sự đồng cảm từ ngọn đèn trong rèm; người chinh phụ bắt đầu có cảm nhận sâu sắc về thời gian chờ đợi:
Trước tiên đó là cảm nhận về sự thay đổi của thiên nhiên, cảnh vật: đêm, tiếng gà nhức nhối suốt năm canh; ngày, sự dịch chuyển của bóng cây hòe trên mặt đất. Sự quan sát thiên nhiên này đã hé lộ tư thế của nhân vật trữ tình: người chinh phụ “ngồi nhẫn tàn canh” trong cảnh đợi chờ. Có thể nói, chờ mong đã trở thành tâm trạng thường trực của nàng. Từ láy tượng thanh “eo óc” và từ láy tượng hình “phất phơ” càng khắc sâu thêm không gian hiu quạnh, tĩnh lặng của cảnh vật, cũng như tâm trạng trống vắng, cô đơn của con người. Bút pháp “tả cảnh ngụ tình”, “lấy động tả tĩnh” đã được vận dụng một cách tinh tế, hiệu quả. Hình ảnh cây hòe trong màn đêm “phất phơ rủ bóng” cũng gợi lên cảm giác man mác buồn, xót xa. Hình ảnh “rủ bốn bên” của cây hòe còn biểu hiện bước đi của mặt trời trọn một ngày. Nếu như hình ảnh cây hòe bắt gặp trong bài “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi tượng trưng cho sự tươi tốt, căng tràn sức sống “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương” thì đến với cây hòe trong bài “Chinh phụ ngâm” lại được đặt trong đêm khuya thanh vắng, thấm đượm nỗi buồn. Từ đó ta thấy được nghệ thuật dùng từ của tác giả, đó là sự chọn lọc một cách tinh tế từ ngữ để biểu thị cảm xúc, tâm trạng.
Nếu như ở cặp song thất, cảm nhận của người chinh phụ về thời gian được gợi lên qua cái nhìn về cảnh vật, thì ở cặp câu lục bát, nhân vật trữ tình đã trực tiếp giãi bày cảm nhận, tâm trạng của mình:
Xưa nay trong cảnh đợi chờ, bao giờ con người cũng cảm thấy thời gian chảy trôi với một nhịp điệu hết sức chậm rãi, như muốn trêu ngươi, kéo dài khoảnh khắc chờ đợi của con người. Như trong “Kinh Thi” của Trung Quốc từng ví “nhất nhật tựa tam thu” hay trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả nỗi niềm tương tư trong tình yêu, Nguyễn Du cũng đã để Kim Trọng phải thốt lên: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dồn lại một ngày dài ghê!”. Trong Chinh phụ ngâm, thời gian chờ đợi của đôi lứa đang trong cảnh ngộ chia lìa dường như càng đáng sợ, khủng khiếp hơn, nhất là khi nó được cảm nhận từ một người thiếu phụ: từng khắc, từng giờ trôi đi như đã qua cả một năm vậy! Nỗi buồn tủi, cô đơn cũng theo đó mà vô cùng vô tận như biển xa.
Thủ pháp so sánh “như, tựa” với những hình ảnh tưởng chừng như khoa trương, ước lệ “khắc giờ như niên” rồi lại “mối sầu tựa biển”, nhưng lại rất thực với tâm trạng mòn mỏi, nỗi lòng ngổn ngang của người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến. Bởi nó đã chuyển biến từ thời gian thật của ngoại cảnh (ở cặp song thất) đến thời gian của tâm lý (ở cặp lục bát này). So sánh bản diễn Nôm với nguyên tác, người đọc có thể thấy được thành công của bản dịch trong việc thể hiện nội dung tư tưởng, tình cảm của câu thơ. Nếu như trong bản chữ Hán của Đặng Trần Côn, đây là hai câu đoản cú “Sầu tự hải/Khắc như niên” thì trong bản diễn Nôm, ý thơ của nguyên tắc được diễn đạt tinh tế, sâu sắc và cảm động hơn. Đoàn Thị Điểm đã sử dụng tài tình thể song thất lục bát – vốn là thể thơ có khả năng dồi dào trong diễn đạt tâm tư tình cảm;vận dụng thành công các từ láy “đằng đẵng, dằng dặc” – một phương tiện ngôn từ đặc thù của tiếng Việt, để miêu tả chính xác, chân thật tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bên cạnh đó bà còn hoán chuyển thứ tự hai câu thơ để mạch cảm xúc đi từ cảm nhận về ngoại cảnh “khắc giờ” cho đến lặn sâu vào nội tâm của con người “mối sầu”. Như vậy, trong không gian vô cùng và thời gian vô tận của sự chờ đợi, người chinh phụ chỉ thấy có mình đối diện đàm tâm với biển sầu của chính mình. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai quả thật tinh tế và sâu sắc khi nhận định rằng: “Đây là một trong những vần thơ mênh mông vô tận, như khối sầu trong lòng người yêu tự ngàn xưa”.
Trong sự bủa vây của mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, người chinh phụ cố gắng tìm cách vượt ra khỏi, nhưng rốt cuộc vẫn không thoát nổi:
Nàng muốn làm mọi việc để quên đi nỗi nhớ chồng, nhưng xung quanh lại luôn là khung cảnh gợi nhớ, khơi dậy cảm giác về sự chia lìa lứa đôi hiện tại của nàng: “hương”, “gương” rồi sắt cầm” – đàn cầm và đàn sắt gảy hòa âm với nhau, thường dùng để ví cảnh vợ chồng hòa thuận, với dây đàn uyên ương và phím đàn loan phượng – hình ảnh biểu tượng của lứa đôi gắn bó: cặp uyên ương, loan phượng. Chính vì vậy, nỗi nhớ lại càng chất chồng. Cho nên, hết thảy ba lần lần người chinh phụ định làm những công việc bình thường của cuộc sống hằng ngày thì cũng chỉ là “gượng”. Chính phép điệp từ “gượng” gợi tả cử chỉ, dáng dấp: cố làm cho ra vẻ tự nhiên, bình thường khi đang có tâm trạng buồn, đồng thời nhấn mạnh sự gượng gạo đến tội nghiệp của nàng. Khi đốt hương, nàng lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man: “hồn đà mê mải”. Khi soi gương thì nàng lại nhớ hình ảnh cùng chồng soi chung nên không cầm được nước mắt “lệ lại châu chan”. Khi gắng “gảy ngón đàn” thì kinh sợ “dây uyên” bị “đứt”, lo ngại “phím loan” bị “chùng”, là những điềm gở báo hiệu sự không may của lứa đôi đang xa nhau. Ở những câu thơ này, yếu tố tự sự – thuật hành động, và yếu tố trữ tình – tả tâm trạng, xuất hiện sóng đôi, đan xen nhau. Trong cùng một câu thơ, vế trước chỉ việc làm, vế sau là sự biểu hiện tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình: “Hương gượng đốt / hồn đà mê mải” rồi “Gương gượng soi / lệ lại châu chan.” Thủ pháp đối kết hợp với liệt kê, đảo ngữ – đưa bổ ngữ chỉ vật lên trước hành động: “hương gượng đốt, gương gượng soi, sắt cầm gượng gảy, dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” có tác dụng rất lớn đối với việc xây dựng yếu tố tự sự. Bên cạnh đó, từ ngữ cũng được Đoàn Thị Điểm lựa chọn, sử dụng rất “đắt”: “mê mải, châu chan, kinh, ngại” đã biểu đạt đến tận cùng các sắc thái tình cảm, cung bậc tâm trạng của nhân vật trữ tình. Chưa đến nỗi như người thiếu phụ ngày xưa vọng phu hóa đá, nhưng nàng chinh phụ của chúng ta đã phải sống trong nỗi cô đơn, buồn nhớ, sầu lo triền miên không dứt. Mọi nỗ lực nhằm xua tan đi buồn nhớ đều bất lực, vô dụng. Không thể thay đổi cảnh sống hiện tại, người chinh phụ lại càng khắc khoải âu sầu, càng rơi vào tuyệt vọng. Đó là sự bế tắc khủng hoảng đến độ trở thành bi kịch.
Đoạn trích đã thể hiện sự đồng cảm của tác giả – dịch giả khi khắc họa thành công bi kịch tâm trạng của người chinh phụ: khát khao được giãi bày, chia sẻ mâu thuẫn với hiện thực cô đơn, sầu muộn. Người chinh phụ đã bật lên tiếng nói thầm kín của lòng mình.
“Nếu như có những tư tưởng của thời đại, thì cũng có những hình thức của thời đại” (Bielinski). Trong văn học phong kiến “phi ngã”, Chinh phụ ngâm nói chung và đoạn trích nói riêng, ra đời để cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người, đặc biệt là người phụ nữ; qua đó, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đương thời
Tiếng nói ấy xuất phát từ tấm lòng nhân đạo cao cả và tư tưởng nhân văn tiến bộ, và có ý nghĩa khai phá quan trọng: là tiền đề cho tinh thần nhân đạo đề cao quyền sống và quyền hạnh phúc lứa đôi của con người ở văn học giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX trỗi dậy mạnh mẽ trong Truyện Kiều, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân Hương… sau này.
Hình ảnh ước lệ tượng trưng, giàu sức gợi hình, biểu cảm: sắt cầm, dây uyên, phím loan”. Đoạn trích đã chọn lọc đắt giá, khai thác hiệu quả những từ thuần Việt (thầm gieo, đòi phen, khá thương, gượng, kinh, ngại), đặc biệt hàng loạt những từ láy tượng thanh, tượng hình đậm đà tính dân tộc (eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, thăm thẳm, đau đáu); các biện pháp nghệ thuật thường xuất hiện trong thơ văn cổ (đối, điệp, nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, câu hỏi tu từ,…). Thể song thất lục bát của bản diễn Nôm góp phần quan trọng diễn tả được những trạng thái tình cảm miên man không dứt, phù hợp với giai điệu chung của khúc ngâm.
Có thể nói rằng cả khúc ngâm đọng thành một “mối sầu vạn cổ” mà không gây nhàm chán vì sự diễn biến tinh vi mà phong phú, đa dạng của đời sống nội tâm nhân vật. Chỉ riêng đoạn trích này, tâm trạng của người chinh phụ đã có những chuyển biến luân phiên: ngóng trông ngoại cảnh để tìm mối đồng cảm, nhưng không thành để rồi quay về độc thoại với nỗi cô đơn sầu muộn ngổn ngang trong sâu thẳm lòng mình; khi lóe sáng chút hy vọng, lúc lại rơi vào hố sâu tuyệt vọng, ủ rũ, bế tắc. Nếu nói rằng, lời lẽ trong “Chinh phụ ngâm” là sự “hoàn toàn thống nhất giữa ý, tình và âm thanh, nhịp điệu, những câu thơ đẹp vào bậc nhất trong thơ Việt Nam” (Hoài Thanh) thì đoạn trích này là một minh chứng.
16 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – Mẫu 3Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.
Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:
Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ. Hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:
Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.
Không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhường nào. Cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo đếm, nay được định lượng hóa bằng sự đằng đằng của tháng năm, bằng sự rộng dài của dòng thời gian trường cửu, càng thêm quay quắt và trở nên trơ trọi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khoải, rợn ngợp về tương lai.
Những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự đơn độc, về sự hoang hoải trống vắng trong tâm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi về tương lai, về sự cách lý.
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – Mẫu 4Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 – 252 trong nguyên tác. Khi vừa ra đời tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đã có nhiều bản dịch ra chữ Nôm, nhưng bản dịch hiện tại là thành công nhất được viết theo thể song thất lục bát là thể thơ thuần túy của người Việt Nam. Nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm. Phần lớn cho rằng là của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở Trung Quốc). Mười sáu câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.
Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:
Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân. Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh ” rủ thác đòi phen”- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:
Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước”- chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình. “Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với “Ca dao yêu thương tình nghĩa”: ” Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác” chẳng thể chia sẻ cùng nàng được. Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:
Nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh “Hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa? Càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:
Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rũ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng. Cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:
Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợ “dây uyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng. Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về, mong được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều không!
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn. Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.
Thông qua mười sáu câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – Mẫu 5Đặng Trần Côn là một tác giả văn học nổi tiếng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động nên của đất nước khi mà chiến tranh đã làm chia cắt bao gia đình. Có biết bao nhiêu cặp vợ chồng vừa xây dựng hạnh phúc lứa đôi đã phải chia tay để chồng đi chinh chiến phương xa. Từ sự cảm thương với số phận con người trong thời chiến, ông đã viết nên tác phẩm “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một trong những đoạn trích tiêu biểu nói về tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người vợ trẻ khi chồng ra trận vắng nhà.
Ngay từ tám câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ
Nỗi cô đơn của người chinh phụ đã được thể hiện trước hết qua hành động một mình nàng dạo hiên vắng. Buông rèm rồi lại cuốn rèm không biết bao nhiêu lần. Hành động này thể hiện sự bối rối, tâm trạng thất thần nhớ nhung khiến cho người phụ nữ còn không thể kiểm soát được hành động của mình. Đó là tâm trạng chờ đợi mong ngóng, tin tức người chồng phương xa. Nỗi buồn nỗi cô đơn của người chinh phụ còn được diễn tả qua sự đối bóng của người với ngọn đèn khuya.
Hai câu thơ được tác giả viết hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bế tắc của người chinh phụ. Nàng hỏi đèn để mong muốn tìm được một sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng rồi tự trả lời rằng đèn không biết. Hình ảnh ngọn đèn cùng với nỗi lòng của người chinh phụ như càng góp phần khẳng định nỗi buồn triền miên, cô đơn, không ai chia sẻ.
Đoạn thơ 8 câu cuối có sự chuyển đổi tinh tế để phù hợp với diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Từ những lời tự sự miêu tả nội tâm, đến đoạn thơ này có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ của tác giả.
Đoạn thơ này, tác giả chủ yếu sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tức là dùng ngoại cảnh để miêu tả tâm trạng nhân vật, dùng cái chủ quan để miêu tả cái khách quan. Vì thế, trong bài thời gian vật lí đã biến thành thời gian tâm lý. Tiếng “gà eo óc gáy” là âm thanh báo hiệu năm canh và bóng cây “hòe” tĩnh mịch trong đêm nhằm làm tăng ấn tượng vắng vẻ, cô đơn đáng sợ.
Trong tâm trạng chờ đợi mỏi mòn đó người chinh phụ thấy thời gian trôi qua một cách chậm chạp, một khắc một giờ mà giống như một năm.
Và để giải tỏa nỗi niềm sầu muộn, người chinh phụ đã biết tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày: “soi gương, đốt hương, gãy đàn”. Nhưng tất cả chỉ làm trong sự gượng gạo, miễn cưỡng chán chường.
Thành công của đoạn trích này là ở khả năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế với bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại và sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ…
Chỉ với 16 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm được xem là tiếng kêu thương của người phụ nữ nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – Mẫu 6“Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những kiệt tác của danh sĩ, nhà thơ Đặng Trần Côn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bộc lộ rõ tâm trạng u buồn, nhớ nhung của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi, vì chồng phải tham gia vào trận đánh chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến con người phải chia cắt.
Trong 16 câu thơ đầu tiên, tác giả thể hiện nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, cảm giác về thời gian chờ đợi, cố tìm cách giải khuây mà không được. Đến 11 câu thơ tiếp theo, thi nhân đã họa lại nỗi nhớ thương chồng ở phương xa của người chinh phụ khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm. Trong những câu thơ còn lại, cảnh vật xung quanh càng khiến lòng người chinh phụ thêm rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.
Những câu thơ đầu tiên chất chứa tâm trạng nhớ nhung, sầu muộn của người phụ nữ:
Chúng ta thấy người chinh phụ khắc khoải chờ mong chồng dẫu ngày hay đêm. Nằm trong phòng, nàng hết buông rèm xuống lại cuốn rèm lên. Tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả từng động tác, cử chỉ, hành động được lặp đi, lặp lại nhiều lần của người chinh phụ. Những hành động ấy không xuất phát từ bất kỳ mục đích gì, tất cả đều là những động tác vô thức, không chủ đích, không ý nghĩa, cốt chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn, lẻ loi của nàng. Người chinh phụ mong mỏi có được sự đồng cảm, nhưng thực tại lại càng thất vọng: “chim thước” chẳng chịu mách tin, “đèn” không hiểu được tâm sự của mình. Câu hỏi tu từ được sử dụng “đèn biết chăng?”, “đèn chẳng biết” phải chăng là lời thở than, thể hiện nỗi khắc khoải trong đợi chờ vô vọng, day dứt mãi khôn nguôi. Tâm trạng của nhân vật đã chuyển giọng kể tự nhiên, từ lời kể bên ngoài thành lời độc thoại nội tâm da diết, dằn vặt, ngậm ngùi. Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với cái bóng trên tường của chính mình gợi cho người đọc nhớ đến hình ảnh đèn không tắt trong bài ca dao vốn rất quen thuộc:
Nhận thấy trong tám câu thơ tiếp theo, người chinh phụ đã mượn cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng của mình, dùng cái khách quan để miêu tả sự chủ quan:
Âm thanh “tiếng gà eo óc” báo hiệu canh năm, đồng thời như sự minh chứng rằng người vợ xa chồng đã thức suốt đêm dài. Hình ảnh “bóng hòe” ngoài sân, hết ngắn rồi dài, rủ xuống mặt đất, càng khiến không gian thêm ảm đạm, ngột ngạt. Thời gian của xa cách, nhớ thương cùng với tâm trạng da diết khôn nguôi. Cụm từ “gượng” được tác giả diễn tả cách đặc biệt, đi liền với các động từ “gảy”, “soi”, đốt” cùng những đồ vật “đàn”, “hương”, “gương”. Tất cả đều cho thấy, những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm hằng ngày của người phụ nữ, giờ đây vắng chồng, vắng niềm hạnh phúc, tiếng cười, bỗng được tiến hành một cách gượng ép. Đốt hương mà tâm hồn lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man. Soi gương lại không cầm được những giọt nước mắt không ngừng rơi vì tủi hổ. Đàn đứt dây, chùng lại, nào có thoát khỏi bể trời đơn côi?
Chúng ta thấy rằng chỉ vỏn vẹn 16 câu thơ đầu tiên, tác giả đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi. Nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, cố tìm cách giải khuây mà không được. Tác giả đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng phong phú, tinh vi, sâu kín trong tình cảm của người phụ nữ, càng thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo dành cho người chinh phụ trong hoàn cảnh đơn côi, lẻ loi.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – Mẫu 7Trong đề tài viết về chiến tranh, người ta thường viết nhiều về những tráng sĩ, những anh hùng đã chiến đấu, đã hi sinh vì non sông, đất nước. Rất ít tác giả viết về hình ảnh những người vợ, những người mẹ mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng mình, của con mình. Và có ai biết được rằng cái sự chờ đợi đó dường như là vô vọng, bế tắc bởi lẽ: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”. Cảm thông trước cảnh buồn khổ của những người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã sáng tác tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán và Đoàn Thị Điểm đã dịch bài thơ này ra chữ Nôm. Trong bản dịch này, có thể thấy xuất sắc nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đặc biệt là 16 câu thơ đầu tiên.
Ngay những câu đầu của tác phẩm Chinh phụ ngâm, tác giả đã vẽ nên cảnh chia tay giữa người chinh phụ và chinh phu: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”. Nói như thế có nghĩa là khi người chồng đã đi chinh chiến nơi biên ải xa xôi, người vợ phải ở nhà. Đó là hoàn cảnh của người chinh phụ trong hiện tại. Không những nêu lên hoàn cảnh hiện tại của người chinh phụ, 16 câu thơ đầu còn khắc họa hình ảnh của người vợ trẻ giữa không gian và thời gian. Về không gian, tác giả đã vẽ ra trước mắt chúng ta về hiên vắng, ngoài rèm, trong rèm. Đó là không gian hiu quạnh và vắng vẻ vô cùng.
Advertisement
Không chỉ thế, thời gian trong đoạn thơ này cũng được vẽ nên, đó là trục thời gian trôi chảy. Các hình ảnh hoa đèn, tiếng gà eo óc đã vẽ nên cái trục thời gian tuần hoàn: từ đêm đến đêm khuya và trời dần trở về sáng. Nói như thế có nghĩa là người chinh phụ đã thức suốt năm canh để chờ đợi, ngóng trông và gặm nhấm nỗi cô đơn, sầu muộn của mình.
Tóm lại, đoạn trích đã cho ta thấy được hình ảnh của người chinh phụ nổi bật giữa không gian và thời gian. Vậy giữa cái khoảng không gian quạnh vắng, cô đơn chiếc bóng ấy, giữa thời gian lê thê của năm canh ấy người chinh phụ đã làm gì?
Hai câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy hình ảnh của người chinh phụ với những hành động thật lạ kì. Người chinh phụ dạo hiên, người chinh phụ ngồi rèm. Thế nhưng, nàng dạo hiên mà thầm gieo từng bước, nàng ngồi rèm mà rủ thác đòi phen. Đó là hành động quanh quẩn, được lặp lại nhiều lần. Có thể thấy hành động này bất thường bởi lẽ nàng dạo hiên mà đếm từng bước chân. Nàng ngồi trước cửa sổ mà hết hạ rèm xuống rồi kéo rèm lên.
Hành động vô thức ấy cứ lặp đi lặp lại để cho thấy được rõ ràng bên trong người chinh phụ đang chất đầy tâm trạng. Nàng ngồi rèm, nàng dạo hiên không phải đề hòa mình với thiên nhiên, mà là để trông ngóng một điều gì đó. Có thể thấy, 2 câu thơ đầu đã đặc tả được sự cô đơn, lẻ loi, vắng bóng cũng như hé mở tâm trạng bên trong của người vợ trẻ này. Nàng đang chờ đợi, ngóng trông điều gì mà lòng thổn thức không yên. Và đến những câu thơ tiếp theo thì tâm sự của người chinh phụ đã được hé mở:
Cụm từ “thước chẳng mách tin” hé lộ mọi tâm trạng của người chinh phụ. Thì ra người vợ trẻ ấy đang chờ đời con chim thước – con chim báo tin lành, tin của người chồng nơi biên ải xa xôi. Thế nhưng, con chim thước không đến và người chồng cũng bặt vô âm tín.
Tiếp theo đó, tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoài rèm với trong rèm và câu hỏi tu từ: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”. Chính cái thủ pháp đối lập và câu hỏi tu từ, một lần nữa cho chúng ta thấy được cái tâm trạng trách móc, buồn bã của người chinh phụ.
Bên cạnh đó, ta còn cảm nhận được sự tuyệt vọng của người vợ đang mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng. Những câu thơ đầu vẽ nên tình cảnh của người chinh phụ trong lẻ loi, cô đơn, vô vọng. Người chinh phụ ấy thật đáng thương biết bao. Và đáng thương hơn nữa khi nàng chỉ biết làm bạn với ngọn đèn:
Với thủ pháp điệp từ: “đèn biết chăng”; “đèn có biết”. Tác giả đã vẽ nên dòng tâm trạng triền miên, day dứt, không nguôi của người vợ trẻ. Thêm vào đó, với câu hỏi tu từ” đèn có biết dường bằng chẳng biết” như là một nỗi ám ảnh, như là một tiếng lòng thổn thức không nguôi của người chinh phụ. Hai câu thơ này đã cho ta thấy tâm trạng buồn rầu, xót xa của người vợ khi chờ đợi mãi mà chưa có tin tức gì. Không chỉ thế, 2 câu thơ với câu hỏi tu từ đã tạo nên một dòng chảy tâm trạng triền miên, day dứt. Và dòng tâm trạng ấy lại trở nên dai dẳng hơn nữa, triền miên hơn nữa khi nó đặt giữa một không gian và thời gian chẳng bao giờ ngừng và đứt đoạn:
Bên cạnh việc sử dụng phép điệp, câu hỏi tu từ, đoạn thơ còn sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng: hoa đèn, bóng người và cạm từ như bi thiếp, buồn rầu. Với những hình ảnh và cụm từ ấy, tác giả một lần nữa cho ta thấy sự cô đơn, sầu muộn. Đặc biệt hình ảnh hoa đèn khiến ta liên tưởng đến những câu ca dao thật hay thật đẹp về chuyện tình yêu:
Cô gái trong bài ca dao hay người vợ trẻ trong chinh phụ ngâm khúc đều phải mòn mỏi từng ngày, từng tháng, từng năm để ngóng trông tin tức của người yêu, người chồng. Không chỉ thế, hình ảnh hoa đèn và bóng người khá thương còn gợi ta liên tưởng đến chuyện người con gái nam xương của nguyễn dữ. Cả vũ nương trong tác phẩm này và người chinh phụ của đặng trần côn. Cảnh vật trong đoạn trích này vẫn không thay đổi, nhưng thời gian lại trôi chảy tuần hoàn:
Cụm từ âm thanh “gà eo óc” đã diễn tả được sự trôi chảy của thời gian. Nếu như ở các câu thơ trước xuất hiện hình ảnh đèn-báo hiệu đã tối, hoa đèn – báo hiệu đã khuya, và cuối cùng là tiếng gà – báo hiệu trời đã sáng. Không chỉ có âm thanh tiếng gà eo óc mà còn có cả không gian qua hình ảnh lá hèo. Hình ảnh hòe phất phơ rủ bóng bốn bên gợi lên một không gian vắng lặng, tĩnh mịch, hoang vắng. Người xưa đã nói: Thức đêm mới biết đêm dài. Phải thức đêm mới biết được cái khoảng thời gian ấy trôi qua một cách lê thê. Người chinh phụ đã cảm nhận được dòng thời gian trôi chảy:
Thủ pháp so sánh “trích thơ” cùng với các từ láy đằng đẵng dằng dặc đã cho chúng ta cảm nhận được cái âm điệu sầu não, day dứt của đoạn thơ. Không chỉ tạo nên cái âm điệu sầu não, tác giả đã sử dụng thủ pháp lấy cảnh ngụ tình để thể hiện nỗi cô đơn, vắng bóng, sầu khổ của người chinh phụ. Nỗi nhớ ấy dài lê thẻ tựa cả một năm. Không những dài mà nỗi nhớ ấy còn rộng, sâu tự biển cả rộng lớn. Ai có thể thấy được bờ bến của biển khơi, ai có thể thấu được cái lòng đại dương kia đến tận đâu. Tấm lòng của người chinh phụ được ví von với những hình ảnh mang đậm sắc thái biểu cảm như thế.Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi.
Trong đoạn thơ này tác giả đã liệt kê hàng loạt hành động của người chinh phụ. Người chinh phụ đốt hương,soi gương, gảy đàn. Thế nhưng những hành động ấy đều gượng gạo và miễn cưỡng. Nằng làm đó nhưng đó là hành động của người có xác mà không hồn. nàng làm đó nhưng bên trong tư tưởng tâm trí lại nghĩ về điều khác. Người chinh phụ đốt hương cầu mong hạnh phúc gđ, nhưng nàng đốt hương mà hồn đà mê mải. Nàng soi gương nhưng soi gương làm chi, trang điểm làm gì khi không có chồng bên cạnh. Hình ảnh người chinh phụ soi gương khiến ta liên tưởng đến bài thơ Khuê oán của vương xương linh. Trong bài thơ này, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chinh phụ trang điểm sau đó lên lầu để ngắm cảnh. Nhưng lên đến lầu mới nghiệm ra nhiều điều:
Khi trông thấy dáng liễu bên đường mới nhận ra thời gian trôi chảy vô tình, nhan sắc của nàng dần tàn phai và người chồng ngày ra đi chưa biết ngày trở về. Nhân vật trữ tình còn gảy đàn. Nàng gảy đàn để tìm đến thú vui tao nha. Mong rằng tiếng đàn kia sẽ làm vơi bớt nỗi muộn phiền. Thế nhưng, gảy đàn mà lại dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng:
Câu thơ sử dụng điển tích dây uyên và phím loan. Chính 2 điện tích này đã diễn tả tâm trạng tiếp theo của người chinh phụ. Không chỉ cô đơn, không chỉ lẻ loi, không chỉ sầu muộn mà lúc này đây tràn đầy nỗi lo lắng và sợ hãi. Nàng sợ dây uyên ngại chùng sợ điềm gở sẽ đến, sợ vợ chồng chia lìa xa cách.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn long phụng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Hai đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, hồng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, 16 câu thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – Mẫu 8Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.
Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:
Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ. Hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:
Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.
Không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhường nào. Cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo đếm, nay được định lượng hóa bằng sự đằng đằng của tháng năm, bằng sự rộng dài của dòng thời gian trường cửu, càng thêm quay quắt và trở nên trơ trọi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khoải, rợn ngợp về tương lai.
Những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự đơn độc, về sự hoang hoải trống vắng trong tâm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi về tương lai, về sự cách lý
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Cái Tôi Của Nguyễn Tuân Trong Đoạn Trích Người Lái Đò Sông Đà 2 Dàn Ý & 7 Bài Văn Mẫu Lớp 12
Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò Sông Đà tuyển chọn 7 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
1. Mở bài
Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà, là thiên tuỳ bút tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Sức hấp dẫn của bài tuỳ bút này chính là ở “tính chủ quan, tính trữ tình rất đậm, nhân vật chính là cái tôi của nhà văn”.
2. Thân bài
Là nhà văn có.phong cách nghệ thuật đặc sắc, văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi “cái tôi” độc đáo, sự tài hoa, uyên bác, giác quan sắc nhọn, tinh tế, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc. Sức hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Tuân trong bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là ở sự độc đáo, sự giàu có về chữ nghĩa, sự công phu trong quan sát và lựa chọn ngôn từ. Tất cả đều mang đậm chất Nguyễn Tuân.
– “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ở sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như hoạ. Nhà văn đã phát hiện và miêu tả sông Đà như một sinh thể sống, với tính cách hung bạo và trữ tình, để từ đó tấu lên một khúc tráng ca về con sông dũng mãnh trên chốn thượng nguồn; đồng thời ngân nga những thanh âm dịu dàng, trong trẻo, êm ái chốn hạ lưu. Từ đó, nhà văn đã tạc dựng hình ảnh người lái đò trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục. Nguyễn Tuân tỏ ra hứng thú đặc biệt trong việc khám phá, thể hiện “chất vàng mười” trong tâm hồn con người Tây Bắc. Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.
– “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú;ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng. Hình ảnh dòng sông Đà và người lái đò sông Đà đã được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân.
– “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính; đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự độc đáo của chính người cầm bút. Thổ tuỳ bút, với đặc điểm của một lối văn “độc tấu” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) đã phát huy tối đa hiệu quả của nó trong việc bộc lộ “cái tôi” trữ tình của nhà văn.
3. Kết bài
Khẳng định cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương.
Nêu cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về “cái tôi” trữ tình Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò Sông Đà.
Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của những người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Ông quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo”.
Với tùy bút Người lái đò Sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối kì diệu giữa cái đẹp của ngôn từ với vẻ đẹp tuyệt mĩ của hình ảnh mang đến cho người đọc một hình dung mới mẻ, độc đáo trong chất vàng của thiên nhiên đồng thời là chất vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân – Một tác giả của nền văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Nguyễn Tuân là biểu hiện độc đáo, trọn vẹn về hình ảnh người nghệ sĩ: vừa rất tài hoa, vừa rất ngông. Tài hoa là cách thể hiện tài năng, sự am hiểu hơn người của mình. Từ người tử tù tài hoa đến một người lái đò bình thường bỗng trở thành người nghệ sĩ. Ngông là cách biểu hiện khinh bạc, khác đời, khác người.
Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ bởi ông quan niệm cuộc đời hành trình đi tìm cái đẹp và khẳng định cái đẹp. Con sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ. Người tử tù không nhìn nhận ở phương diện tội ác mà nhìn nhận của sự tài hoa. Người lái đò không chỉ nhìn nhận ở phương diện nghề nghiệp mà được nhìn nhận trên phương diện của một chiến sĩ, một người nghệ sĩ trên sông Đà. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú và khả năng sáng tạo từ mới. Với ông, viết văn mà hạn hẹp và thiếu thốn từ ngữ sẽ tạo ra loại văn “thấp khớp”, hời hợt, nông cạn.
Cái tôi của Nguyễn Tuân là cái tôi có cảm hứng mãnh liệt đối với những gì gây cảm giác mạnh, gây ấn tượng sâu đậm, độc đáo. Dữ dội phải tới mức khủng khiếp (con sông Đà hung bạo), đẹp phải tới mức tuyệt mĩ (con sông Đà thơ mộng, trữ tình), tài năng phải tới mức siêu phàm (hình tượng ông lái đò). Không chỉ vậy, cái tôi của ông còn là cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng tác giả dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử: nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê. Trước vẻ đẹp hoang dại của dòng sông, nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, về cuộc sống hiện đại. Trải lòng, hóa thân vào dòng sông để đắm tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi, trôi những con đò mình nở chạy buồm vải.
Nguyễn Tuân tài hoa trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, câu văn. Uyên bác vận dụng tri thức của nhiều kiến thức về địa lí, lịch sử, văn hóa, điện ảnh để miêu tả sông Đà ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau để tiếp cận và miêu tả con sông Đà và người lái đò. Tri thức về võ thuật, quân sự, thể thao để miêu tả cuộc vượt thác của người lái đò như một trận thủy chiến. Tác phẩm Người lái đò Sông Đà không chỉ có giá trị văn học mà còn có những giá trị văn hóa khác.
Nguyễn Tuân là một cái tôi đầy bản lĩnh, đầy ngạo nghễ trong dòng văn học Việt Nam hiện đại. Bằng nỗ lực không ngừng để làm mới mình, Nguyễn Tuân đã khẳng định được một phong cách riêng độc đáo. Người xưa thường nói: “Văn cũng như người”, Nguyễn Tuân là con người thích cuộc sống tự do phóng khoáng thậm chí đôi lúc còn phóng túng. Ông ham mê du lịch, thích chủ nghĩa xê dịch, không chịu được những cái gì chung chung, bằng phẳng, nhợt nhạt. Một cá tính mạnh mẽ, không ưa sự gò bó, khuôn phép. Cho nên Nguyễn Tuân tìm đến với thể loại tuỳ bút, một thể văn tự do, phóng khoáng là một điều dễ hiểu. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Tuân là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng cả về lối viết, tư tưởng”. Điều này thể hiện nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Trong đó tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một ví dụ mẫu mực cho phong cách đó.
Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước mà lòng thêm thư thái, tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua qua hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc Người lái đò Sông Đà ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông nước. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện thẩm mĩ, đã miêu tả, nhận diện con người – ông lái đò – ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu bằng tất cả cảm giác tinh tế, bằng những liên tưởng đầy góc cạnh với một kho từ vựng dồi dào, sáng tạo. Văn Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa – cần mẫn, sáng tạo, đem thơm thảo dâng hết cho đời.
Khát khao cống hiến cho nghệ thuật, khát khao đi tìm và thể hiện những cảm giác mạnh mẽ dữ dội, cộng với chất nghệ sĩ đã phóng túng, tự do đã thúc đẩy Nguyễn Tuân đến với sông Đà và bằng “nghệ thuật bậc thầy của ngôn từ”, ông đã sáng tạo nên hình tượng con sông Đà – một trong những kiệt tác của nghệ thuật văn xuôi. Văn học Việt Nam có thêm hình tượng một dòng sông, người yêu văn chương có thêm một tác phẩm để mà yêu dấu, trân trọng. Có lẽ hình tượng con sông Đà trong “Người lái đò sông Đà” là một trong những hình tượng thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn là “cảm xúc mạnh, là hơi thở nồng” (Nguyễn Đăng Mạnh) của cái “tôi” trữ tình nghệ sĩ mang khát vọng cuồng nhiệt, muốn biến những trang văn thành những trang hoa lộng lẫy, yêu kiều vừa mê hoặc, vừa thách đố người đọc.
Trải suốt từ trang đầu đến trang cuối tác phẩm là hình ảnh dòng sông Đà được chụp lại ở nhiều chiều, nhiều góc độ khác nhau. Qua việc tìm hiểu dòng sông, người đọc được hiểu thêm về một con người, một nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái thật và cái đẹp” – nhà văn Nguyễn Tuân, bởi vì hình tượng con sông vĩ đại của vùng đất Tây Bắc xa xôi là sự thể hiện khá đầy đủ phong cách hay cái nhìn cuộc sông của nhà văn, ở đó, bạn đọc đã thấy một con người ưa sự độc đáo trong sự tài hoa – uyên bác; một cá tính mạnh mẽ luôn săn tìm những gì dữ dội. mãnh liệt; một thầy phù thủy ngôn từ, hình ảnh…
Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân bên cạnh vẻ dữ dội, hung bạo như “kẻ thù số một” của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng mơ màng, có nét trữ tình của một con người nồng nàn xúc cảm. Nếu có ai hỏi tôi về đoạn văn tâm đắc nhất tôi sẽ trả lời ngay rằng đó là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của dòng sông hiền hòa “con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình… cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đoạn văn như một khúc nhạc nhẹ êm ái, lại như một bức tranh thủy mặc mang đến cho tâm hồn người đọc những rung động tinh vi, những xúc cảm nhẹ nhàng. Bằng tất cả tài năng và tâm huyết của mình, dòng sông dữ dội đã mờ phai, chỉ còn hình ảnh của dòng nước nhẹ nhàng, cũng có những rung động yêu thương “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Dù được tái hiện dưới góc độ thiên nhiên nhưng Nguyễn Tuân đã thổi vào dòng sông Đà những cảm xúc tinh tế của một con người nghệ sĩ tài hoa. Nó cũng biết “dịu dàng”, cũng yêu thương, duyên dáng, cũng hồn nhiên, lặng lẽ… Nguyễn Tuân không chỉ nhìn dòng sông ấy như một con người, mà còn hơn thế, một con người có một tâm hồn nghệ sĩ. Chính vì vậy Nguyễn Tuân mới coi dòng sông Đà như một “cố nhân” (“nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”), trong nhiều tác phẩm, nhà văn họ Nguyễn đã thể hiện tình yêu với những con người tài hoa, những thiên nhiên mĩ lệ. Tùy bút “Sông Đà” là một tác phẩm như thế là sự kết hợp của tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên tập trung trong hình ảnh dòng sông Đà. Từ xưa đến nay đã có ai có niềm vui “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, như nối lại chiêm bao đứt quãng” khi trông thấy dòng sông. Đó chính là vì Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông như một con người, và hơn thế, một con người tài hoa, một cố nhân lâu ngày gặp lại.
Tình yêu cuộc sống, lòng ham hiểu biết về con sông, cây cầu của non sông đất nước cũng như ý thích đi lại hoạt động…đã tạo cho mỗi trang viết của Nguyễn Tuân ngồn ngộn kiến thức, thể hiện một sự hiểu biết tường tận từng chi tiết được nói tới trong văn mình. Dòng sông Đà có thể được tái hiện rất trữ tình, thơ mộng nhưng cũng có lúc khúc Đà giang vĩ đại hiện lên chính xác trong từng con số. Nguyễn Tuân thoắt trở thành nhà địa lí khi đưa ta về với thượng nguồn sông Đà ở Cảnh Đông tỉnh Vân Nam sau đó chan hòa vào sông Hồng, chảy trên đất Việt 500 cây số trong tổng chiều dài 883 nghìn thước mét, khi kể ra rất chính xác, cụ thể về “những cái thác, những cái ga nước trên sông Đà từ Vạn Yên về xuôi”. Cũng có khi nhà văn trở thành một nhà điện ảnh, với ngôn ngữ của nghệ thuật thứ 7” những thước phim màu cũng xoay tít, cái máy lia ngược contre – pioneer lên cái mặt giếng mà thành giếng…”. Quả thật, khi miêu tả dòng sông Đà, Nguyễn Tuân đã đứng trong vai trò của nhiều nhà khoa học: một người chuyên nghiên cứu lịch sử biết dòng sông dưới thời Pháp thuộc có một “cái tên Tây lếu láo”; một nhà chính trị khi biết “châu Quỳnh Nhai được giải phóng trước tiên ở Tây Bắc”, trở thành “cơ sở bàn đạp ở Tây Bắc” xuyên vào lòng địch… Không chỉ thế Nguyễn Tuân còn huy động những hiểu biết về những môn nghệ thuật gần gũi với văn chương như hội họa (“con sông Đà tuôn dài…”); điêu khắc có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”…), ở những lĩnh vực rất xa văn chương, Nguyễn Tuân cũng rất hiểu biết và sử dụng rất linh hoạt qua đó tái hiện Đà giang ở nhiều góc độ khác nhau. Nguyễn Tuân đã sử dụng cả kiến thức võ thuật để dựng một thạch trận dòng sông: kiến thức thể thao khi miêu tả cuộc chiến đấu “các luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”… Nhờ những hiểu biết này, sông Đà đã hiện lên thật sinh động cụ thể, thật dữ dội cứng cỏi của võ thuật thật bay bổng của hội họa, văn chương… Nguyễn Tuân đã vươn tới văn chương chuẩn mực: trữ tình, sâu lắng mà chính xác, khoa học… Trong quá trình làm sống dậy dòng sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện mình là người biết, mà còn rất ham hiểu biết, say sưa khám phá những lĩnh vực mới mẻ trong cuộc sống. Trong Lịch sử văn học, có lẽ chẳng có ai đủ kì công như nhà văn đất Thăng Long khi mấy lần bay qua dòng sông Đà chỉ để hạ bút viết mấy câu: đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân hay trên sông Đà… vì mỗi độ thu về”.
Với lòng yêu say tiếng mẹ đẻ, sự hiểu biết sâu sắc về sự biến đổi từng từ ngữ. Nguyễn Tuân đã trở thành thầy phù thủy ngôn từ với hàng trăm phép biến hòa mà mỗi phép biến hóa có công dụng lạ lùng mặc dù trong cuộc đời, nhà văn chỉ thừa nhận ông là “người viết văn bằng tiếng Việt” chứ không phải “nhà văn” hay bất cứ một danh hiệu cao quý nào khác. Trong tùy bút “Sông Đà” – ông đã dùng hết tài năng, vốn từ ngữ của mình tung ra trang giấy để tái hiện sự hung bạo của dòng sông cũng như vẻ đẹp trữ tình của một nhân lâu ngày lặp lại”. Với sự hiểu biết rộng rãi của mình, Nguyễn Tuân đi dùng từ ngữ trong nhiều lĩnh vực để tái hiện được hết tất cả những góc độ khác nhau của dòng sông. Có ngôn ngữ của điện ảnh (“Contre – plongée”); có võ thuật (“đánh khuýp quật vu hồi”); có cả từ ngữ về ô tô (“sang số nhấn ga” Những từ ngữ này mang đặc trưng của mỗi lĩnh vực nhưng đều tập trung thể hiện dòng sông Đà. Với cách sử dụng từ ngữ như thế, nhà văn đã đưa nhiều lĩnh vực tưởng xa với văn chương trở nên gần gũi đã tập trung thể hiện hình tượng văn học.
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” ta còn gặp rất nhiều phép so sánh liên tưởng thú vị và bất ngờ. Để diễn tả cảm giác lạnh lẽo khi ngồi trong khoang đò qua một quãng sông, Nguyễn Tuân đã “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái lầu nhà thứ mây nào vừa tắt phụt đèn điện”. Có phép so sánh nào độc đáo và hiệu quả đến thế không ? Có những khi Nguyễn Tuân đã lấy lửa để so sánh với nước “thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Hình ảnh so sánh cùng nhịp câu văn ngắn, dồn dập tạo cảm giác sóng gió đang cuồn cuộn dâng trào… Phép so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa tập trung thể hiện lòng trân trọng giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện lòng yêu say thiên nhiên tươi đẹp, đồng thời thể hiện một cách cảm nhận cuộc sống tươi sáng, trong ngần như pha lê của người chiến sĩ văn hóa.
Mỗi một nhà văn đều được coi như một loài hoa quý tỏa ngát hương thơm đặc biệt trong cánh rừng đại ngàn văn học. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng vậy, ông đã đem lại hương thơm ngào ngạt cho nền văn học Việt Nam qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà” bằng một “cái tôi” cá nhân riêng biệt bởi tình yêu thiên nhiên.
Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời săn tìm cái đẹp. Phong cách sáng tác của ông nổi bật ở sự ngông ngạo, khác người đó là sự phóng túng, tài hoa, uyên bác. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế Nguyễn Tuân thu hoạch được khi đến với vùng Tây Bắc xa xôi. Qua tác phẩm, nhà văn đã thể hiện một “cái tôi” riêng biệt đó là “cái tôi” tài hoa, uyên bác và có ý thức, trách nhiệm sẵn sàng góp một phần chiến công của mình trên mặt trận xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mở đầu tác phẩm, ta bắt gặp hình ảnh con sông Đà cá tính, ngạo nghễ chảy về hướng Bắc khắc hẳn so với những con sông khác. Đây cũng chính là đối tượng chính để nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ nét chấm phá riêng biệt của ngòi bút tài hoa, uyên bác. Cái “tôi” tài hoa, uyên bác thể hiện qua niềm say mê cái đẹp của Nguyễn Tuân trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông Đà ở nhiều vẻ đẹp khác nhau. Hung bạo là tính cách nổi bật nhất của sông Đà, nhà văn đã sử dụng kĩ xảo ngôn từ vận dụng kiến thức của các ngành khoa học khác nhau để tạo sự cảm nhận mang tính mới mẻ về sông Đà. Tác giả miêu tả và cảm nhận hình ảnh sông Đà để người đọc thấy được sự hùng vĩ ghê rợn của dòng sông. Sông Đà hung bạo, dữ dội ở cảnh thác đá và các trùng vi thạch trận. Thông qua miêu tả sự hung hiểm của thác đá, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà. Đá bờ sông dựng “vách thành” gợi độ cao lên đến tận cùng và độ hẹp đến mức tối đa khi con nai, con hổ cũng có thể nhảy vọt từ bờ bên này qua bờ bên kia. Tác giả miêu tả dòng sông như một con thủy quái đáng sợ ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng, quãng Tà Mường Vát tàn bạo đến ghê gớm. Với sự tài hoa và tinh anh, nhà văn Nguyễn Tuân đã phát lộ thành tiếng nói nghệ thuật ở những trận thủy chiến trên mặt trận sông Đà. Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, nhà văn đã đặt dòng sông ở trận chiến với ông lái đò, nhà văn đã miêu tả từ sự hùng vĩ đến đáng gờm của dòng sông khi chúng huy động cả đá, nước thác hỗ trợ nhau để hạ gục ông lái đò. Sang đến trùng vi thạch trận thứ hai khi cửa tử nhiều hơn cửa sinh thì nhà văn đã miêu tả dòng sông trong thế đối lập với sự đơn độc của ông lái đò để làm nổi bật sự tài hoa của ông lái đò khi vượt qua thác đá an toàn. Sự hung bạo của dòng sông chưa dừng lại ở đó, sang đến trùng vi thạch trận thứ ba thì cả bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Để biến sông Đà thành con thủy quái hung tợn, Nguyễn Tuân đã tả một cách chi tiết, tỉ mỉ, gây cảm giác mạnh. Sông Đà hiện lên trong trạng thái vận động dưới trí tưởng tượng phong phú và khả năng quan sát tinh tường của nhà văn.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thì dòng sông không chỉ nổi bật ở vẻ đẹp hung bạo mà nó còn rất đỗi thơ mộng trữ tình bởi một cái tôi yêu thiên nhiên sâu sắc. Sông Đà đã làm nên nét đẹp riêng biệt của vùng núi Tây Bắc, “con sông tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”. Nhà văn đã so sánh dòng sông như một người con gái để làm mềm đi văn bản và vô cùng phù hợp với tình cảm, trạng thái của con người Việt Nam. Sông Đà trở nên thơ mộng bởi màu sắc của nước sông còn thay đổi theo từng mùa. Sông Đà còn gợi cảm như là một cố nhân, nó ánh lên vẻ đẹp màu sắc Đường thi, nó giống như một người bạn cố tri để nhà văn gặp được một mảnh tâm hồn mình. Ta có thể cảm nhận được hình ảnh sông Đà được gợi ở nhiều góc độ, dưới sự quan sát tường tận, am hiểu chi tiết của nhà văn. Khi mô tả về sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng tinh hoa trong ngòi bút của mình, vận dụng kiến thức của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để khắc họa về một dòng sông mạnh mẽ, dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng, trữ tình.
Cái “tôi” Nguyễn Tuân còn thể hiện qua việc phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của con người lao động thông qua hình ảnh ông lái đò. Ông lái đò là một trong những hình tượng nghệ thuật đẹp trong trang văn của Nguyễn Tuân sau cách mạng Tháng Tám. Ông lái đò là một nhân vật đặc biệt hiển hiện giữa núi rừng Tây Bắc, bình thường, giản dị nhưng có sức mạnh phi thường. Ông lái đò có ngoại hình và tố chất đặc biệt bởi những phác họa về cái tay “lêu nghêu”, cái chân “khuỳnh khuỳnh”, giọng nói thì “ào ào” như tiếng nước trước mặt ghềnh. Chính hoàn cảnh sóng nước hung bạo đã khiến cho ông lái đò có ngoại hình và tố chất như vậy. Trước sự hung bạo của thiên nhiên, ông lái đò là người tài trí và rất mực dũng cảm. Ông có hiểu biết tường tận về tính nết của dòng sông, về quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ông đã chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan bằng cái nhìn từng trải mà không thiếu đi những nét lãng mạn. Đó cũng chính là quan niệm của nhà văn Nguyễn Tuân về người anh hùng, người anh hùng có ngay giữa cuộc sống đời thường, hiện diện trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên. Bởi vậy, ông lái đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp của con người lao động. Nhà văn đã thu thập hình tượng làm nên một vẻ đẹp khái quát về người anh hùng chinh phục thiên nhiên, ông lái đò mang vẻ đẹp sử thi, đời thường và là một người nghệ sĩ trên sông nước. Ông lái đò chính là hiện diện của “cái tôi” có ý thức, trách nhiệm đối với đất nước.
Qua tác phẩm, ta thấy được Nguyễn Tuân là một nhà văn vừa có tâm lại vừa có tài, nhà văn đã khẳng định vẻ đẹp có ở khắp mọi nơi trên mặt đất chứ không phải chỉ có ở những con người kiệt xuất như trước cách mạng Tháng Tám. Bằng ngôn từ điêu luyện và sự am hiểu tường tận về thiên nhiên, nhà văn Nguyễn Tuân đã phác họa thành công vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
“Người lái đò sông Đà” chính là một tuyệt bút của “cái tôi” Nguyễn Tuân. Nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp ẩn chứa bên trong dòng sông hung bạo và bên trong của con người bình thường. Khép lại trang sách, ta vẫn thấy vang vọng trong suy nghĩ một dòng sông dữ dội nhưng rất đỗi thơ mộng trữ tình và một con người tài ba giữa cảnh thác lũ của “cái tôi” Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Đúng vậy! Với phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, Nguyễn Tuân đã tìm đến tùy bút như một điều tất yếu. Sức hấp dẫn của tùy bút xét đến cùng tùy thuộc vào cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không. Điều ấy nói rằng không phải ai cũng trở thành bậc thầy như Nguyễn Tuân. Chỉ cần một văn phẩm “Người lái đò sông Đà” đã có thể tôn vinh Nguyễn Tuân là một cây tùy bút độc đáo, tài hoa, uyên bác.
Những năm tháng đến với Tây Bắc là ông đi tìm “thứ vàng mười đã được thử lửa”, “chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc” để hát ca về thiên nhiên đất nước, những con người đang ngày đêm thầm lặng trong gian lao vất vả để dựng xây cuộc sống mới ở vùng cao heo hút này.
Tập Tùy bút Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng là bức tranh sinh động về thiên nhiên và cuộc sống của người nơi đây, mang đậm cảm hứng lãng mạn trong sáng và thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.
Nét độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trước hết ở tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương tiện thẩm mỹ, văn hóa. Mở đầu tác phẩm, dòng sông Đà được miêu tả như một công trình mỹ thuật tuyệt vời của hóa công. Con người lao động trên dòng sông thật giản dị, nghèo khó, cần cù nhưng được nhà văn xây dựng như một tài hoa, nghệ sĩ trí, dũng tuyệt vời trong nghề chèo đò vượt thác.
Sau mỗi chuyến đi hiểm nguy, gian lao nhưng ông vẫn bình thản. Mọi hiểm nguy xèo xèo như bọt nước tan trong trí nhớ. Sông Đà chỉ như một chiếc lá thu, và ông đến với nó như đến với một người bạn lắm chứng nhiều tật mà vẫn phải ăn đời ở kiếp. Lao động thật gian nan nhưng tâm hồn người lái đò cũng thật lãng mạn, quả là một nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò vượt thác.
Nguyễn Tuân không ưa cái nhìn bằng phẳng, nhợt nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội…Vì vậy ông soi chiếu đối tượng ở nhiều phương diện. mang đến cho người đọc lượng thông tin phong phú, chính xác và thú vị. sử dụng bút pháp của hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc huy động vốn kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau như: địa lý, lịch sử, võ thuật, quân sự.
Ông xoay ngắm một dáng sông, dựng nó dậy như một cơ thể sống biết gào thét, lồng lộn trên từng hàng chữ thật kì thú. Và hình ảnh ông lái đò như một dũng tướng gan dạ, mưu trí, quyết liệt. Tay luôn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, ông nhớ từng cử sinh để điều khiển chiếc thuyền.
Nguyễn Tuân dùng sức mạnh điêu luyện của ngôn ngữ truyền hồn sống vào từng khối đá linh động, biến chúng thành bầy thạch tinh hung hãn trong cuộc giao tranh với con người. Tả về thiên nhiên dữ dội, khủng khiếp cũng chỉ để tôn vinh sức mạnh, lòng quả cảm, sự kì vĩ của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên, đồng thời đem lại cho người đọc những cảm giác thẩm mỹ mới mẻ.
Người lái đò sông Đà đã đạt tới trình độ nghệ thuật bậc thầy về thể loại tùy bút, ở đó, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ một cái tôi độc đáo, tài hoa, uyên bác và phóng túng. Ông đã mang đến cho người đọc những trang văn thấm đẫm một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống của thiên nhiên. Vẻ đẹp ngôn ngữ trong trang văn như thôi miên người đọc vào mê cung của cảnh vật sông Đà đẹp đến mê hồn và những con người lao động bình dị trên sông nước.
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, đối với sự nghiệp văn chương ông có những nét đặc sắc tiêu biểu mà không phải người nghệ sĩ nào cũng có đó là những vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật nó riêng biệt và độc đáo tiêu biểu trong phong cách sáng tác của ông tiêu biểu nó thể hiện qua bài Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa và cả đời của ông luôn phấn đấu để đi tìm những điểm riêng biệt và những cái đẹp trong phong cách nghệ thuật của mình. Trong bài tùy bút Người lái đò sông Đà ông đã thể hiện rõ được những điều đó, bởi đây là bài mà ông rất tâm huyết và ông đã dùng chính tài năng và phẩm hạnh của mình để sáng tác lên những tác phẩm đậm chất bi tráng này, dòng sông của người lái đò là dòng sông mà ông đã quan sát và ông có cái nhìn sâu sắc về nó, nó không chỉ là một dòng sông biểu hiện cho sức mạnh mẽ của con người mà đó là dòng sông của minh chứng lịch sử. Với tài năng nghệ thuật độc đáo riêng biệt ông đã tạo nên cho mình những sáng tác riêng và đó là những sáng tác cổ xưa và mang bao dấu ấn mạnh mẽ tác giả không chỉ dừng chân ở đây để có những quan sát thấu đáo mà ông đã dùng những cảm xúc thật của mình để viết lên bài thơ này.
Hình ảnh của người lái đò sông Đà đã được thể hiện rất sinh động qua phong cách nghệ thuật của ông, ông đã dùng những sáng tạo nghệ thuật đó để áp vào cho những con người ở nơi đây, hình ảnh về dòng sông của quê hương đất nước đã tạo nên những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng tác giả, ông đang thể hiện những điều đó rất nổi bật trong cách sáng tác của chính mình. Hình ảnh về dòng sông của quê hương đã tạo cho ông cảm hứng để viết lên bài tùy bút hay như thế này. Tác giả có cách tạo ấn tượng rất đặc sắc qua cách giới thiệu về dòng sông nó đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe, tác giả không khỏi hình dung ra những chi tiết đặc sắc khác thể hiện trong tác phẩm này. Hình ảnh về dòng sông nó mang những tính cách của con người. Dòng sông cũng có lúc hung bạo và cũng có lúc trữ tình nó đã làm xoay chuyển mọi tính cách qua những hoàn cảnh khác nhau, hình ảnh về dòng sông cũng giống như về con người, tác giả đã miêu tả và quan sát dòng sông qua những tính cách điển hình và tiêu biểu đó. Trong bài tùy bút tác giả đã thể hiện hàng loạt những chi tiết thể hiện dòng sông hung bạo đó là có những vách đá ngăn thành chết lòng sông Đà như một cái yết hầu.
Và hàng loạt các chi tiết khác cũng thể hiện rõ điều đó dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn, các chi tiết như ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre đã thể hiện được hình ảnh về dòng sông quê hương đất nước. Tác giả đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên những hình ảnh hay và sinh động như vậy, hình ảnh đó thật mang dại và chính với khả năng và tài năng của mình ông đã vẻ lên một hình ảnh về dòng sông với vẻ đẹp thật hùng vĩ, với cách so sánh sinh động đã tạo nên cho ông một bài tùy bút hay và nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với cách so sánh hợp tình và hợp lý như vậy hình ảnh về dòng sông cũng đã thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nó mang ấn tượng cho người đọc, bởi hàng loạt những hình ảnh tạo ấn tượng riêng biệt, hình ảnh về quê hương của chúng ta đã hiện lên những hình ảnh đẹp và ngày càng thu hút mạnh mẽ tầm quan sát của người đọc, những hình ảnh trên cũng đã mang cho người đọc những cái nhìn sâu rộng và nó trở thành một niềm tin sáng lóe trong cái nhìn của tác giả về chính sản phẩm mà ông đã tạo ra.
Ông là một người có những trí tưởng tượng cũng vô cùng phong phú, cũng có lúc ông đã sử dụng những hình ảnh kỹ thuật của điện ảnh của âm thanh hội họa để thể hiện được những chi tiết tiêu biểu qua tác phẩm này, ông cũng nhân hóa những hình ảnh của dòng sông để miêu tả và có thể cảm nhận được tính cách hung bạo của dòng sông đó, hình ảnh về dòng sông nó mang những dấu ấn mạnh mẽ trong cách sáng tác của tác giả, những thác gập ghềnh và nó mang cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về những hình ảnh đó, hình ảnh của dòng sông Đà đã được tác giả thể hiện sinh động và vô cùng ấn tượng cho người đọc, nó không chỉ mạnh mẽ trong đường khối mà nó cũng đã tạo nên những tính cách khác cho người đọc, hình ảnh của dòng sông đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng tác giả bởi tính cách và những nét riêng biệt mạnh mẽ.
Những hình ảnh về một dòng sông hoang dại và hung dữ cũng đã được thể hiện sâu sắc trong nhà văn, ông đã dùng tài năng của mình để nói về những hình ảnh đó, cảm xúc của nhà văn cũng thật sâu sắc và sinh động khi ông nói về cảm xúc của chính mình và dòng sông đó đã mang lại. Và chúng ta nhìn thấy tài năng của tác giả được thể hiện mạnh mẽ trong đó, Nguyễn Tuân đã ca ngợi dòng sông này và nó hiện lên thật độc đáo và sinh động, tính cách của dòng sông đó là dòng sông trữ tình và yêu thương nó đã hiện hữu trong con người của tác giả. Hình ảnh của dòng sông hiền hòa cũng được tác giả thể hiện sâu sắc trong bài tùy bút này, dòng sông được tác giả miêu tả như người con gái có mái tóc dài, màu sắc cũng được thay đổi đặc sắc trong bài thơ, với những nét phong phú và đặc sắc của bài thơ tác giả đã thể hiện được những chi tiết đặc sắc và mang những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng của tác giả.
Advertisement
Nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò của Nguyễn Tuân đã điển hình và nó thể hiện những không khí hào hùng và man dại trong cái nhìn của nhà văn, Nguyễn Tuân là nhà văn đã biết tạo lên hình tượng của dòng sông qua những chi tiết thật và không khí hiện lên cùng man rợ và có những ấn tượng sâu sắc và vang nhộn. Hình ảnh về một dòng sông có những chi tiết rất đặc sắc và nó đúng với không khí và chi tiết mà tác giả đã và đang sử dụng ở đây. Với cái nhìn đầy thiện cảm và nó đã tạo nên những sâu sắc riêng trong con mắt nhìn của tác giả về cái nhìn và cách quan sát của tác giả cũng thật toàn diện nó mang những dấu ấn mạnh mẽ và trang nghiêm, những chi tiết tuyệt vời mà tác giả thể hiện trong tác phẩm này là tác giả đã miêu tả rõ ràng và chi tiết và hình tượng tiêu biểu của tác giả về những hình ảnh đó, hình ảnh về quê hương và với tình yêu quê hương thắm thiết đã tạo nên cho tác giả cái nhìn sâu sắc hơn, ông đã miêu tả dòng sông qua con mắt thấu đáo của mình.
Với tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ông đã thể hiện rất nhiều những câu văn nhẹ nhàng và nó đã thể hiện một tình cảm đặc biệt của tác giả đối với dòng sông Đà, dưới ngòi bút thần của tác giả thì hình ảnh đó trở lên thật mỹ lệ và không có gì sánh bằng. Hình ảnh về thiên nhiên cũng được tác giả thể hiện sinh động và hình ảnh về người lái đò sông đà cũng được thể hiện rất chi tiết và đặc sắc nhà văn đã ví thiên nhiên Tây Bắc như một thứ vàng mười, và nó thật quý giá trong con mắt nhìn người và cách quan sát của tác giả về những chi tiết nổi bật đó.
Với tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của mình thì nó đã mang cho tác giả một cái nhìn toàn diện hơn về phong cách sáng tác của nhà văn, nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa mà ông còn mang những vẻ đẹp của một người có cái nhìn đời sâu sắc.
Người lái đò Sông Đà trích trong tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, sáng tác năm 1960. Đây là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Phong cách, con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một niềm vui sống bao trùm lên tất cả, xen lẫn những cảm tưởng và xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng của non sống Tây Bắc.
Tác phẩm lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về Sông Đà nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả miêu tả con sống từ nhiều góc độ khác nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm của mình đối với con sông đại diện cho thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Với lối viết của Nguyễn Tuân, Sông Đà đã trở thành Sông Đà – Nguyễn Tuân. Đó là con sông có độ dày lịch sử, tạo ra những con người anh hùng của riêng nó. Sông Đà được vẽ nên bằng ngòi bút biến hóa tài tình, độc đáo, thể hiện sự gắn bó với đất nước đến mức sâu xa nhất của tâm hồn tác giả.
Sông Đà dữ, Sông Đà anh hùng ca, bản chất của Sông Đà là vậy. Tài ba của nhà văn càng làm cho bản chất ấy nổi bật lên. Sông Đà hung bạo ở những đoạn có thác dữ, những quãng lòng sông hẹp, bị kẹp giữa hai vách núi cao hay những chỗ có xoáy nước khủng khiếp, hút tất cả những gì sa vào đó và dìm xuống đáy sông.
Ở đoạn này có nhiều chi tiết chính xác, khoa học xen lẫn cảm xúc dạt dào tính trữ tình của tác giả. Sông Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ: nào là chét lại thành cái yết hầu, nào là vách đá dựng đứng cao vút, đúng ngọ mới thấy mặt giời… mùa hè vẫn lạnh… Khi thì pha chút huyền thoại trong những nét nên thơ như con nai, con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia, tưởng như lòng sông chỉ còn là dải yếm trong ca dao xưa.
Cái gì của Sông Đà cũng dữ. Cát, gió, đá, thác ghềnh, sóng nước phối hợp với nhau : Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió và gió cứ cuồn cuộn từng luồng. Chỉ nghe tiếng nước ở những quãng lắm thác cũng đã đủ ghê người. Tiếng reo của nước lúc nghe như là oán trách, rồi lại như là van xin, rồi lại là như khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… Rồi bỗng dưng không biết chuyện gì mà nó rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn. Hoặc có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút xoáy. Ở đó nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ gấp bội. Mặt sóng cũng có ổ gà như mặt đường kạn, đi vào ổ gà sống là thuyền bị giật xuống bị trồi lên. Thuyền đi vào luồng nước thì chết ngay, hoặc đi không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất sinh. Những quãng hiểm trở của Sông Đà mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con người: hung hãn, nham hiểm và xảo quyệt.
Sông Đà dữ quả là không sai với tiếng đồn. Cát, đá, nước, gió, sóng hùa nhau bẫy người vào chỗ chết. Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đắc sách, vừa có chất trí tuệ vừa có tính tạo hình, vượt xa những thủ pháp mà người ta quen gọi là nhân hóa, đi vào bản chất sâu xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo thành những trang viết biến hóa khôn lường. Do thế mà cái dữ dội của Sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca vô cùng độc đáo.
Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình. Đó là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Nhìn từ máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.
Nước Sông Đà màu sắc thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,… mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ. Trên sông, những chiếc thuyền then đuôi én xuôi dòng, tạo cho sông vẻ thơ mộng riêng của nó. Là sông mà nó nói với con người bao điều. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân, một người thân cũ lâu ngày gặp lại. Nhà văn say mê ngắm màu nắng giòn tan vàng như hổ phách trên sông mà chợt liên tưởng tới màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của thi hào Lý Bạch đời Đường bên Trung Quốc.
Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm của tác giả đối với con người, sản phẩm của dòng sông ấy. Ông lái đò là sản phẩm của Sông Đà được tác giả tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước Sông Đà. Cái dữ dội của Sông Đà đã có ông lái trị được. Hình ảnh ông lái đò: cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi mà vẫn cưỡi lên con thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì cương, đè sấn lên mà chặt đôi con thác… rất sinh động và ấn tượng.
Lên thác phải chống bằng sào. Trên vai người lái đò, đầu sào in vào một khoanh bầm, đó là hình ảnh thực. Tác giả bình thêm: Cái đồng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò Sông Đà. Con người dũng cảm, thông minh đã chiến thắng được thiên nhiên dữ dội. Ở người lái đò này, có cái gì mà không in dấu con sông, không là sản phẩm của Sông Đà? Sông Đà đối với ông lái đò quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng, ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Nguyễn Tuân gọi tài nghệ của ông là tay lái ra hoa.
Đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người cho rằng như soi trong Ống kính trăm màu. Thực ra, ngòi bút tác giả không chỉ bảy màu mà trăm ngàn màu sắc. Nguyễn Tuân đi rất sâu vào bản chất của sự vật, sự việc, con người để tìm hiểu, khám phá và nắm bắt kì được cái cốt lõi, tinh túy, cái hồn của nó. Đồng thời có sự kết hợp giữa trình độ hiểu biết uyên bác, tác phong làm việc nhanh nhạy, tỉ mỉ, khoa học, giàu chất trí tuệ và cảm xúc đậm đà chất trữ tình được thể hiện dưới những hình thức ngôn ngữ sáng tạo rất độc đáo, rất Nguyễn Tuân, không thể lẫn với bất kì ai khác.
Tùy bút Sông Đà phần nào chứng tỏ bút lực già dặn cùng phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân – cây đại thụ của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
……………
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 7: Giải Thích Câu Nói Sách Là Người Bạn Lớn Của Con Người Dàn Ý & 12 Bài Văn Mẫu Lớp 7 trên website Vtlx.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!